Linh Đạo Thánh Thể Canh Tân

Linh Đạo Thánh Thể Canh Tân 

       Xin giới thiệu tài liệu “Linh Đạo Thánh Thể Canh Tân” của tác giả Lm. Erasto Fernandez, SSS do Lm. Domic Thuần, SSS chuyển ngữ. 

        Tài liệu này đã được in thành sách và phát hành. Những mong tài liệu này được phổ biến rộng rãi để mọi Kitô hữu có thể học hỏi, tham khảo, đào sâu về Linh đạo Thánh Thể để thêm lòng yêu mến, tôn sùng Thánh Thể Chúa. 

        Nhờ lời chuyển cầu của Cha cố Đa Minh Nguyễn Phúc Thuần, SSS nơi Thiên Quốc, nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể chúc lành cho những ai khao khát tìm hiểu, đào sâu Linh Đạo Thánh Thể.

Lời người dịch 

        “Được kêu gọi tới Linh Đạo Thánh Thể Canh Tân”, đó là tựa đề của loạt bài suy niệm của cha Erasto Fernandez, SSS. Những bài suy niệm này được gom lại trong “Ensemble – Together” số 78, Nội San của Dòng Thánh Thể, với mục đích khuyến khích các tu sỹ Dòng Thánh Thể khắp thế giới suy niệm, sống và áp dụng, để phát huy đặc sủng của Dòng mà Cha Thánh Eymard, Đấng Sáng Lập, để lại. 

        Theo nhận xét của cha Hans van Schijndel, SSS, Phó Tổng Quyền Dòng Thánh Thể, thì đây là “những kiến thức thần học vững vàng và lành mạnh, được diễn tả bằng thứ ngôn ngữ đơn sơ và cụ thể, cùng với một số câu hỏi rất thực tế và hữu ích, để cá nhân suy niệm thêm và để cho các cuộc chia sẻ cộng đoàn”. 

        Đây quả thực là một tài liệu sâu sắc và hữu ích cho mọi giới, vì giúp chúng ta đào sâu và hiểu rõ hơn những gì được diễn ra trong cuộc cử hành Thánh Thể, nhờ đó chúng ta có thể tham dự cách ý thức, tích cực và hữu hiệu hơn vào Mầu Nhiệm, trung tâm và tột đỉnh của đời sống Giáo Hội cũng như của đời sống cá nhân. Xin trân trọng giới thiệu. 

PHẦN I 

LINH ĐẠO CỦA CHÚNG TA: NHỮNG Ý NIỆM CĂN BẢN

Chương 1 

LINH ĐẠO LÀ GÌ? 

        Khát vọng bẩm sinh của con người là Thiên Chúa và những thực tại cao cả chứ không phải những bận tâm hoàn toàn vật chất (Tv.62). Tuy nhiên, có lẽ do Tội Nguyên Tổ mà tất cả chúng ta đều cảm thấy sự phân hóa nội tại nơi mỗi người, cũng như những chia cách giữa các nhóm mỗi ngày một cách biệt hơn. Bởi thế, trong cuộc sống, chúng ta cảm thấy có những phương diện xem ra đòi hỏi phải được quan tâm hơn phương diện khác, và thường chúng ta sẵn sàng hi sinh mọi phương diện khác để đạt tới điều mong muốn. Chẳng hạn, như chúng ta biết, có những người chỉ nhắm đạt tới một khía cạnh của cuộc sống như: trí thức, xã hội, tài chánh, lạc thú… Tình trạng đó làm cho cán cân của đời sống bị lệch đi. Linh đạo nhằm mục đích giữ cho mọi chiều kích của cuộc sống được cân bằng, hay cho những tương quan giữa khía cạnh của cuộc được hòa hợp với nhau.

        Làm thế nào để có thể thực hiện được điều đó? Chúa Giêsu đề nghị một đường lối đặc biệt. Người nói với các môn đệ: “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Trời và đức công chính của Người trước, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ cho thêm” (Mt.6:33). Tuy đề nghị ấy có vẻ nghịch lý, nhưng sự thật là nếu chúng ta đặt Thiên Chúa lên trên hết và chỉ tìm kiếm “thực thi Thánh Ý Ngài”, thì tất cả mọi sự sẽ đâu vào đó trong sự hòa hợp thích đáng và trong mối tương quan xứng hợp. 

        Thánh Phêrô Giulianô Eymard đã khám phá được điều này trong cuộc Tĩnh Tâm ở Rôma: Ngài hối hận vì đã đặt tầm quan trọng quá đáng vào những việc bề ngoài. Từ đó ngài quyết định sẽ luôn tự hỏi: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Ngài đã thực hiện quyết định ấy và nhờ thực hành như vậy, ngài đạt tới trình độ linh đạo cao. 

        Bước đầu tiên chúng ta có thể thực hành là cố gắng luyện tập thói quen này là: trước khi quyết định điều gì, chúng ta sẽ ngừng lại và cầu xin: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Chúng ta sẽ thực hiện điều đó ở lãnh vực cá nhân cũng như trong lãnh vực hoạt động tông đồ. Trước khi nói với một giáo dân đến xin việc gì, chúng ta hãy thầm thưa với Chúa, Đấng ngự trong Phòng Tiệc Ly Nội Tâm của tâm hồn: “Lạy Chúa, Chúa muốn con nói gì với người này?”. Cũng vậy, trước khi giảng giải, vào thăm viếng một gia đình, khởi sự nghiên cứu học hỏi cá nhân hay họp với Cộng Đồng Kitô Hữu Cơ Bản, v.v. 

        Khi chúng ta quyết định thực hành như vậy – đó là trọng tâm linh đạo của Cha E-ma (Eymard), ít nhất là vào những năm cuối đời ngài -, chúng ta đồng thời cũng phát huy một khía cạnh khác của linh đạo mà ngài rất ưa thích, đó là luôn tìm cách “trở nên giống Chúa Giê-su, Đấng đã và đang hiện diện thế nào trước mặt Đức Chúa Cha”. Theo quan niệm của Cha E-ma (Eymard), đó là một trong những khía cạnh để trở nên kẻ tôn thờ đích thực. Theo ngài, kẻ tôn thờ đích thực không nguyên chỉ là kẻ thờ lạy Chúa trong Bánh Thánh, nhưng nhất là trở nên một con người đặc biệt… con người luôn hiến cho Chúa Giê-su “một nhân tính” để Người có thể đáp lại cách tế nhị và nhậy cảm trước những ước vọng của Đức Chúa Cha, kể cả những ước vọng nhỏ bé nhất. Ở đây cũng vậy, Linh Đạo Thánh Thể Canh Tân cũng bao gồm một thách đố, đó là kêu mời chúng ta nhắm vào khía cạnh năng động (dynamic) hơn là tĩnh thái (static) của sự hiện diện thực.

Chương 2 

LINH ĐẠO KI-TÔ GIÁO LÀ GÌ? 

        Linh đạo chúng ta theo là một Linh Đạo Ki-tô giáo. Như vậy vấn đề được đặt ra là: “Người ki-tô hữu là gì? Ai là người ki-tô hữu?”. Có thể đặt vấn đề cách khác: “Người ki-tô hữu khác với người ngoài kitô giáo thế nào?”, hoặc: “Yếu tố nào biến linh đạo của ta thành linh đạo ki-tô hữu?”. 

        Chương trình của Thiên Chúa bao gồm hết mọi người sinh ra trong trần gian. Và theo chương trình này, hay theo Thánh Ý Chúa, thì mỗi người phải phản ảnh bản chất nội tại và đời sống tình yêu của Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa câu: “Chúng ta được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa”. Do đó, ơn kêu gọi của mỗi người là trở thành một cá vị yêu thương, và theo bản năng, mỗi người đều biết và thể hiện như vậy, ít nhất theo một mức độ nào đó. Tuy nhiên, người ki-tô hữu được đặc ân nhận biết những bí nhiệm trong kế hoạch của Thiên Chúa (Mc.4:10-11; Eph.1:3-10). Ý thức rõ về ơn kêu gọi này, người ki-tô hữu đã dấn thân (khi chịu Phép Rửa) để sống theo ơn kêu gọi ấy, và trong khi sống như vậy, họ trở nên dấu chỉ cho những người khác. Bởi thế, người ki-tô hữu yêu thương cách ý thức và theo mẫu mực của Chúa Ki-tô, nghĩa là yêu thương tới mức độ bẻ nát thân mình ra để hiến cho người khác khi Ngài nói: “Hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Ta được hiến cho các ngươi”. 

        Như vậy cách thức yêu thương của người ki-tô hữu phải vượt trên cách thức của người ngoài ki-tô giáo, nếu không, làm sao người ki-tô hữu có thể trở thành dấu chỉ được?: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và biệt phái, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt.5:20; Đọc:Mt.5:21-48 đặc biệt câu 48). 

        Giáo Hội, dấu chỉ của tình yêu (hay cộng đoàn các ki-tô hữu yêu thương) nhằm mục đích phuc vụ nhân loại, hay: “Giáo Hội vì người ta, chứ không phải người ta vì Giáo Hội”. Bởi thế, bản chất nội tại của Giáo Hội được so sánh như muối, ánh sáng và men (Mt.5:13-14; 13:33). Mỗi yếu tố này đều không tồn tại cho mình, nhưng cho những sự vật khác. Bản chất của chúng là gây ảnh hưởng, là tác động trên ngoại vật, là biến đổi sự vật tiếp cận. Vì thế, ơn kêu gọi của người ki-tô hữu cũng là một tấm gương phản chiếu tình yêu đích thực của Chúa Ki-tô, một tình yêu sẵn sàng hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Nói cách khác, theo định nghĩa, người ki-tô hữu là người không sống cho mình, nhưng cho Chúa Ki-tô và cho người khác (Coi: Kinh Tiền Tụng của Kinh Nguyện Thánh Thể II). 

        Trong 1Cor.3:1-5, Thánh Phao-lô khiển trách giáo đoàn Cô-rin-tô vì thái độ gây chia rẽ của họ, đó là thái độ trần tục (unspiritual), tầm thường, hoàn toàn tuân theo những khuynh hướng của người phàm. Đó không phải là thái độ của Thần Khí hay thái độ ki-tô hữu (nghĩa là không giống như của Chúa Ki-tô). Thái độ của người ki-tô hữu đòi phải vượt lên trên những nhỏ nhen tầm thường. Như vậy, linh đạo ki-tô hữu đòi hỏi người ta phải yêu thương cách đích thực và vị tha, không theo cảm xúc, hứng thú và tưởng tượng, hoặc chỉ bằng lời nói xuông mà không được thể hiện bằng hành động dấn thân cụ thể, người ki-tô hữu phải có thái độ hi sinh và tự hiến mình cho một trật tự cao hơn. 

        Dựa vào căn bản trên, Thánh Phê-rô Giu-li-a-nô nói với chúng ta rằng, hành vi yêu thương của ta không nguyên chỉ nhắm vào những việc bề ngoài mà thôi, nhưng phải phát xuất từ tâm hồn: “Hỡi con, hãy dâng tâm hồn con cho Cha”, đó là hành vi mà kẻ tôn thờ đích thực phải thực hiện và phải hiến trọn con người mình cho Chúa để Người hoàn toàn xử dụng khi ta thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Kẻ tôn thờ đích thực phải luôn cố gắng thực hiện những việc biểu lộ tình yêu hơn. Người ấy sống Thánh Thể bằng cách bẻ nát thân mình ra vì người khác, nhờ việc hiến thân đầy vị tha, theo một cách thức phi thường, không miễn cưỡng hay không toan tính, nghĩa là không so sánh những gì cho đi với những gì người khác đáp lại, nhưng hoàn toàn tự nguyện. Hãy nhớ lại lời Cha E-ma (Eymard) nói: “Trong Thánh Thể, Thiên Chúa hoàn toàn ban mình Người cho tôi, vì thế qua Thánh Thể, tôi cũng muốn hiến thân trọn vẹn cho Người”. 

MỘT VÀI CÂU HỎI ĐỂ SUY TƯ 

* Trong thực hành:

– Trong cuộc sống hằng ngày, tôi có thường nghĩ đến người khác và quên mình không? 

– Tôi có thành thực và nghiêm túc đặt những nhu cầu, ủi an và lợi ích của người khác lên trên của tôi không? 

– Tôi có thực hiện những hành vi ấy cách phi thường để chúng trở nên những dấu chỉ cho người khác không? Hay chỉ khi nào những hành vi ấy hợp với ý thích của tôi hay thuận lợi cho tôi mà thôi? 

– Tôi có ý thức rằng tôi phải nói thứ ngôn ngữ mà mọi người trong nhóm hỗn hợp có thể hiểu được không? 

* Theo một góc cạnh khác: 

– Ý nghĩa của linh đạo ki-tô giáo không gì khác hơn là: cố gắng trở nên con người hoàn toàn và sống động. Vậy:

– Tôi có cố gắng tìm mọi cách để lớn lên trong Chúa Ki-tô không? 

– Phải chăng sự phát triển con người của tôi chỉ nhắm vào một phương diện duy nhất, chẳng hạn: nghiên cứu, học hỏi, công cuộc mục vụ…? 

– Tôi đã học được những kỹ năng nào để phục vụ người khác cách hữu hiệu hơn? 

 Chương 3 

LINH ĐẠO KI-TÔ GIÁO HIỆN ĐẠI LÀ GÌ?

MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM 

        – Linh Đạo Ki-tô Hữu Hiện Đại có tính cách nhập thế hơn là cánh chung. Quả thực, vì linh đạo này cổ võ sự dấn thân hơn là ẩn dật, hướng về trần gian hơn là đời sống ẩn tu, và biểu lộ sự hiến thân lớn lao hơn cho việc phục vụ những người túng cực trong công cuộc tông đồ xã hội. Thế giới được coi là tốt đẹp và người kitô hữu là một thành phần của thế giới ấy. 

        – Linh đạo hiện đại cũng nhắm vào cộng đồng hơn là cá nhân: ý thức về trách nhiệm phải yêu thương cũng mãnh liệt như nhu cầu chấp nhận tình yêu là nguồn mạch cho sự lớn mạnh của con người. Linh đạo ấy cũng là linh đạo hành động, đó là một linh đạo tông đồ sâu xa, vì ngay cả cầu nguyện cũng được coi là một hoạt động tông đồ chứ không phải chỉ là một phương tiện giúp cho công cuộc tông đồ được tốt đẹp hơn. 

        – Linh đạo hiện đại cũng là linh đạo đặt Chúa Ki-tô làm trung tâm: Chúa Giê-su không những chỉ là mẫu mực và nguồn mạch thánh thiện, nhưng còn là Đấng mà mọi ki-tô hữu phải làm chứng, Người cũng là Đấng chúng ta gặp gỡ trong phụng vụ và nơi tha nhân. 

        – Linh đạo hiện đại sau cùng là một linh đạo bộc phát, đích thực và cá nhân. Vì chúng ta luôn nghe những tiếng kêu gào vang lên không ngớt thấu đến tai chúng ta, để đòi được nhìn nhận căn cước của mình, được tự do, được hoàn tất, được thỏa nguyện, cùng với những phản ứng chống lại những phương pháp và sự tuân giữ các giáo điều cách máy móc. 

        Để tiến tới một Linh Đạo Thánh Thể Canh Tân, chúng ta càng ngày càng phải chấp nhận những đặc điểm của linh đạo hiện đại, chẳng vậy chúng ta sẽ bị bỏ lại đàng sau và không còn phù hợp với thế giới chung quanh ta nữa.

        Dựa vào căn bản trên, chúng ta liên tưởng đến đường lối của Thánh Phê-rô Giu-li-a-nô, ngài luôn tìm những phương thức hoàn hảo nhất để đáp lại tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ nơi Thánh Thể. Luật Sống số 3 cho biết phải làm thế nào và tại sao cuộc cử hành Thánh Thể và cầu nguyện của ta phải được thể hiện qua hành động để mưu ích cho những người nghèo khó và túng cực; ngài cũng cố gắng hết sức để làm cho tình yêu của ngài trở nên chân thực và cá nhân (Hãy nhớ lại mối tương quan giữa ngài và Cha de Cuers). “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”, đó là câu hỏi mà ngài không ngừng đặt ra và câu hỏi ấy đã thôi thúc ngài biểu lộ tình yêu mãnh liệt và mối quan tâm chân chính đối với người khác. 

NHỮNG ĐỀ NGHỊ THỰC HÀNH 

        Một trong những đề nghị cụ thể để thực hành là chúng ta cần khích lệ các anh em trong cộng đoàn hơn, nhất là những anh em cần chút nâng đỡ của các anh em khác để có thể thực hiện được những công cuộc tông đồ. Nhiều cộng đoàn của chúng ta đang phải vật lộn bằng nhiều cách để tìm giải pháp tốt đẹp nhất hầu đáp lại những thách đố mà họ đang phải đối đầu, như: xây dựng ngôi thánh đường mới, thỏa mãn những đòi hỏi của công cuộc tông đồ xã hội hay của công cuộc đào tạo, v.v. Một lời nói cảm thông, hỗ trợ và khích lệ trong tình huynh đệ sẽ làm cho linh đạo của ta vượt được quãng đường dài để trở thành thực tại và chân chính hơn – khởi đầu từ những người gần gũi nhất. 

PHẦN II  

TỪ CŨ ĐẾN MỚI, THAY ĐỔI KIỂU MẪU  

Chương 1 

BẢNG ĐỐI CHIẾU VỀ SỰ TIẾN TRIỂN

Linh Đạo Thánh Thể CũLinh Đạo Thánh Thể Mới
Trước C.Đ Va-ti-ca-nô II, Thánh Lễ khởi đầu trong thinh ặng và hầu như không quan tâm gì đến cộng đoàn. Lý do dễ hiểu là vì thời đó chỉ linh mục mới được coi là người khởi sự “Lễ Sinh”, đó là hành vi và lãnh vực của ngài. Ngài đi ra bàn thờ theo đường ngắn nhất và khởi đầu tức khắc.

Trong Phụng Vụ Canh Tân, Thánh Lễ trước hết được coi là HÀNH VI XÂY DỰNG CỘNG ĐOÀN hơn là hành vi tôn thờ. Hay nói đúng hơn, trong hành vi tôn thờ của cộng đoàn, mối giây liên kết giữa các tín hữu được ràng buộc chặt chẽ hơn. Bởi thế Bài Ca Nhập Lễ có một ý nghĩa đặc biệt và mọi người được kêu gọi tham dự vào đó.

Ngoài ra, trong cuộc rước nhập lễ, đoàn rước phải gồm nhiều thành phần khác nhau tham dự, như: nghững người mang thánh giá và nến, người cầm bình hương, những người đọc sách thánh, các thừa tác viên ngoại lệ cho Rước Lễ và các thừa tác viên khác.

 

Nhiều kinh trong phần Nhập Lễ này, linh mục đọc nhỏ để cộng đoàn không tham dự được.

Phần Nhập Lễ cũng không có bài ca và phần này thường để diễn tả niềm vui nói lên cuộc mừng lễ và tạ ơn. Linh mục đi tới “bàn thờ Thiên Chúa”, Đấng làm cho tuổi xuân được vui tươi, nhưng Thiên Chúa cũng là Đấng đáng khiếp sợ, vì Ngài là Đấng thánh thiện tuyệt đối.

Mục đích của Bài Ca Nhập Lễ là để liên kết những người đã qui tụ lại thành cộng đoàn và nhắm tới một một đích đặc biệt, nghĩa là họ qui tụ lại để cử hành vận may được Chúa tuyển chọn.

Việc lựa chọn bài ca không cần phải theo chủ đề, nhưng phải có đặc điểm liên kết cộng đoàn cử hành lại với nhau, (nói đúng ra thì chỉ có một chủ đề duy nhất cho mọi cuộc cử hành Thánh Thể, đó là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giê-su). Với chức năng đó, thì âm nhạc quan trọng hơn lời ca. Vì thế giai điệu của bài ca phải linh hoạt. Thường thường bài ca được đi kèm theo cuộc rước nhập lễ và kéo dài cho tới khi chủ tế tiến tới bàn thờ và xông hương xong (nếu có xông hương).

 

Không có lời chào giáo dân cho tới sau Kinh Vinh Danh và lời chào đó cũng là lời giới thiệu trước Lời Nguyện Mở Đầu.

Lời chào ngay từ khởi đầu mời gọi cộng đoàn cùng hành động. Nên nhớ, phần này hiện giờ được gọi là PHẦN MỞ ĐẦU, chứ không gọi là Nghi Thức Nhập Lễ (Entrance Rite).

Nghi Thức Nhập Lễ chỉ là một trong những thành phần của của Phần Mở Đầu. Phần Mở Đầu này không chú tâm đến Nghi Thức Tiến Vào (Entrance), nhưng đặc biệt nhắm tạo thành một cộng đoàn tôn thờ có khả năng lắng nghe cách nghiêm chỉnh và cử hành cách xứng đáng (Qui Chế Tổng Quát, #24b).

 NHỮNG SUY TƯ MỤC VỤ 

1- Khi dân chúng tu họp nhau để cử hành một cuộc lễ đặc biệt, thì một cách lý tưởng, họ nên gặp nhau ở ngoài nhà thờ trước, trao đổi và trò truyện với nhau, sau đó mới cùng nhau tiến vào thánh đường trong khi hát bài Ca Nhập Lễ. Ở ngoài nhà thờ, chủ tế chào đón giáo dân, chỉ định các tác vụ, như: đọc Sách Thánh, quyên tiền v.v. Dân chúng cũng chào hỏi nhau trong khi chờ đợi khởi đầu bài Ca Nhập Lễ. 

2- Chủ tế cũng nên mặc áo lễ ở trước cửa nhà thờ nơi khởi đầu cuộc rước. 

3- Phải hết sức tránh, đừng để một mình ca đoàn hát bài Ca Nhập Lễ, vì như thế, sẽ không nói lên được ý nghĩa và chủ đích xây dựng cộng đoàn của phần Phụng Vụ này. Trình diễn đại phong cầm hoặc các nhạc cụ khác cũng cần phải tránh như vậy. 

4- Chủ tế phải luôn ý thức rằng, bất cứ ngài nói gì hay làm gì trong cuộc cử hành Thánh Thể cũng đều phải nhắm tới việc xây dựng cộng đoàn thành một đơn vị tôn thờ duy nhất. Hãy liệt kê những thí dụ liên quan đến điểm này. 

5- Để khích lệ sự ý thức của cộng đoàn, hãy mời giáo dân ngồi xít lại gần nhau và đừng để khoảng trống quá lớn ở các hàng ghế (Hãy coi những người Hồi Giáo tụ họp nhau thế nào khi họ đến cầu nguyện: Sau khi người đầu tiên tiến vào chỗ mình rồi, người thứ hai tiếp nối đến sát cạnh người trước, và cứ thế tiếp tục cho tới người chót. Không có một khoảng trống nào ở giữa cộng đoàn của họ. Và hãy coi tất cả đều cùng nhau cúi đầu và cùng nhau cầu nguyện thế nào). Tuy sự duy nhất bề ngoài không phải là điều cốt yếu, nhưng sự duy nhất ấy cũng giúp làm tăng ý thức của cộng đoàn rất nhiều. 

Chương 2 

SỐNG THÁNH THỂ 

        Là những tu sỹ Thánh Thể, chúng ta phải sống Thánh Thể mà chúng ta cử hành. Ít nhất đối với chúng ta, không bao giờ được coi Thánh Thể chỉ là một nghi thức, hay một biến cố được diễn ra ở đâu đó mà thôi. Chúng ta còn phải trở thành “bánh được bẻ ra để chia sẻ, là chén được đổ ra để đem lại ơn tha tội”. 

        Chắc chắn chúng ta đều dấn thân nhiều vào các hoạt động mục vụ. Linh Đạo Thánh Thể Canh Tân đòi hỏi chúng ta thêm một chút nữa, đó là trong khi thi hành những hoạt động mục vụ ấy, chúng ta hãy hướng tất cả về Thánh Thể mà chúng ta cử hành, như vậy những hoạt động tông đồ của ta sẽ trở thành “lễ hiến thân”. Trong Thánh Thể, bẻ bánh tượng trưng cho thái độ của ta luôn sẵn sàng thi hành Thánh Ý Đức Chúa Cha (như Đức Kitô đã thực hiện trong Vườn Giệt si-ma-ni). Như vậy, điều cần thiết phải thực hiện là tất cả những gì chúng ta thi hành ở mỗi giây phút, chúng ta đều thực sự thi hành Thánh Ý Đức Chúa Cha. 

        Một cách tổng quát, có thể nói, theo Thánh Ý Đức Chúa Cha, chúng ta phải biểu lộ lòng cảm thương và tình yêu của Ngài đối với mỗi người chúng ta gặp. Trong thực hành, điều đó có nghĩa là ta phải yêu thương hết mọi người cách vô điều kiện, kể cả chính chúng ta. 

        – Trước hết, yêu người khác cách vô điều kiện là hoàn toàn chấp nhận người ấy, bất kể người ấy thế nào, là cảm nghiệm sự vật theo nhãn giới của người ấy. Yêu người khác cách vô điều kiện cũng có nghĩa là nhìn nhận người ấy như những hữu thể đang phát triển và còn đang trên đường hành trình tiến về Đức Chúa Cha. Nếu còn đang trên đường hành trình, nghĩa là người ta chưa toàn vẹn, chưa hoàn tất, họ còn đang thành hình nhờ Sự Sống. Chấp nhận người khác cách vô điều kiện là chống lại khuynh hướng đòi người khác phải hoàn toàn giống như mình. Phải phân định những khác biệt nơi người khác và tận dụng những khác biệt ấy để cộng tác với họ, đó là điều cốt yếu để đạt tới những tương quan tốt đẹp và hiệu quả. Vậy hãy xem xét thái độ của ta đối với người khác thế nào, chẳng hạn: “Khi tức giận với người khác, tôi có coi đó là hoàn toàn chính đáng không? nhưng khi người khác cũng tức giận như vậy, tôi có cho rằng họ vô lý và tự ái dởm không?”. 

        – Ngoài ra, chúng ta không thể thực sự yêu người khác được nếu chúng ta không yêu chính mình, hay đúng hơn, tình yêu của ta đối với người khác tùy thuộc vào mức độ ta yêu chính mình. Như vậy chúng ta cũng phải chấp nhận chính mình cách vô điều kiện nữa, phải nhìn nhận rằng chúng ta cũng đang trên đường hành trình và chưa hoàn thành. Cần phải phát triển ý thức về những giới hạn của mình, không xét đoán và kết án mình. Ý thức ấy giúp ta xa tránh dần những phản ứng tiêu cực và biến những phản ứng tiêu cực ấy thành tình yêu chân chính hơn. 

ÍT LỜI KHUYÊN THỰC HÀNH 

1- Hãy luôn tìm cách giải thoát mình khỏi tật xấu chỉ tìm kiếm an toàn, cảm xúc và quyền bính (đó là những phản ứng tiêu cực theo tình cảm của quá khứ), tình trạng này thúc đẩy ta tìm cách điều khiển và làm chủ cảnh vực chung quanh và như vậy chúng ta sẽ gây ra biết bao xáo trộn và sẽ ngăn cản ta yêu thương mình và người khác. Hãy lưu tâm đến phương thức bạn vận dụng để đạt tới ba trạng thái trên (tức là: tìm kiếm an toàn, cảm xúc và quyền bính).

2- Hãy cố gắng khám phá những tật xấu chủ yếu có ý thức khiến bạn có những ảo tưởng về thế giới con người và về hoàn cảnh chung quanh bạn. Hãy quan sát rồi liên đới những gì bạn quan sát được với người khác, không phải theo thực chất của họ, nhưng là do những dự phóng và nhận thức mà bạn tạo ra cho họ. Hãy lưu tâm đến điều đó. 

3- Hãy đón nhận mọi cơ hội mà đời sống cống hiến (ngay cả khi cảm thấy phải đau khổ) để nhận ra những tật xấu đặt mình làm trung tâm, đó là những tật xấu cần phải điều chỉnh lại nếu bạn muốn thoát khỏi nhũng phản ứng tiêu cực thường ngày. 

4- Luôn nhủ mình rằng, bạn có đủ điều kiện cần thiết để vui hưởng cuộc sống ngay lúc này; vì thế đừng bám víu vào quá khứ, cũng đừng mơ tưởng tương lai. Không ai có thể tước đoạt được bất cứ gì bạn có, nếu bạn không để họ làm như vậy. Bạn đã được chúc phúc bằng mọi phúc lành thiêng liêng nhờ Đức Kitô. 

5- Hãy hoàn toàn nhận trách nhiệm về tất cả những gì bạn cảm nghiệm được ngay lúc này. Vì cuối cùng bạn sẽ trở thành con người mà chính bạn lựa chọn từ bây giờ. 

6- Hãy chấp nhận hoàn toàn con người bạn ngay lúc này và hãy ý thức rằng, những gì bạn cảm thấy, suy nghĩ, nói năng và thực hiện, tất cả đều là những yếu tố cần thiết để bạn lớn lên trong đời sống sung mãn. 

7- Hãy chân thành cởi mở với mọi người bằng cách bộc lộ cho họ cách trọn vẹn và thân thiện thực chất con người của bạn, kể cả những cảm nghĩ sâu xa nhất. Giấu giếm, trách móc, nói lén và hại người, tất cả chỉ tách xa bạn khỏi người khác và bóp méo tương quan giữa bạn với họ. 

8- Cảm thương với những khó khăn của người khác, nhưng đừng để bị vướng tình cảm vào cảnh huống của họ. Hãy đến với họ khi có thể, cho dù phải trả bất cứ giá nào. 

9- Hãy hành động cách cởi mở khi bạn cảm nghiệm đã bắt được làn sóng, và thấy thích thú. Hãy ngưng hành động khi cảm thấy bực bội và không được thúc đẩy bởi sự khôn ngoan phát xuất từ tình yêu và sự sung mãn của sự sống. 

10- Hãy nhìn mọi người, kể cả chính bạn, như những hữu thể có ý thức, đó là những con người đang đòi quyền lợi bẩm sinh của mình ở những lãnh vực cao hơn của tình yêu vô điều kiện và đặc tính duy nhất của họ.

NHỮNG ĐỀ NGHỊ ĐỂ SUY TƯ 

        Dựa vào căn bản trên, chúng ta hãy nhớ lại một số trường hợp mà Thánh Phê-rô Giu-li-a-nô đã biểu lộ tình yêu của ngài cách vô điều kiện tới mức độ anh hùng. Hãy nhớ lại mối tương quan giữa ngài với Cha Đờ Qui-es (de Cuers) khi cha này rời bỏ Dòng với ý định thành lập một dòng chiêm niệm riêng…, vấn đề đặt Chầu Thánh Thể làm trung tâm của đời sống Dòng Thánh Thể. Những giây phút cầu nguyện của Cha E-ma (Eymard) không hề tách biệt khỏi những giây phút khác của đời sống ngài, nhưng đã đi vào cuộc sống cách tự nhiên và hài hòa. Sở dĩ ngài thực hiện được như vậy là vì ngài luôn ý thức và chăm chú vào “Phòng Tiệc Ly Nội Tâm”. Đó là điều ngài đã thực hiện, ít nhất vào khoảng thời gian cuối đời. Một khi ngài nhận ra rằng “không phải tôi sống nhưng là Chúa Ki-tô sống trong tôi” thì đặc tính của các mối tương quan với người khác cũng đều thay đổi. Tuy ngài không đòi người khác phải theo lối suy nghĩ và cách đối xử của mình, nhưng ngài cũng không chạy theo lập trường của người khác, trái lại ngài luôn trung thành với đường lối riêng mà ngài đã lựa chọn. Thái độ đó tạo khiến ngài phải cô độc khủng khiếp, nhưng ngài luôn kiên trì chấp nhận. 

        Đối với Thánh Phê-rô Giu-li-a-nô, thì tình yêu là lời giải đáp cho mọi gian ác ở trần gian. Phải chăng đó cũng là quan niệm của chúng ta? Chúng ta đã đưa tình yêu vào các mối tương quan giữa ta với các thực tại khác thế nào?: trước hết, vào trong cộng đoàn, rồi vào công cuộc tông đồ, cầu nguyện và các cuộc cử hành Thánh Thể. 

Chương 3

NHÃN QUAN MỚI VỀ GIÁO HỘI, ĐIỂM THEN CHỐT CỦA SỰ HIỂU BIẾT

CANH TÂN VỀ THÁNH THỂ 

        Trước hết, ở đây chúng ta sẽ đề cập tới sự thay đổi khuôn mẫu chủ yếu (Paradigm) trong cách hiểu biết mới về Thánh Thể do Công Đồng Va-ti-ca-nô II khởi xướng. Trong khi nhắc lại nguyên tắc quan trọng của Hăng-ri đờ Luy-băc (Henri de Lubac) “Giáo Hội làm nên Thánh Thể và Thánh Thể làm nên Giáo Hội”, trước hết chúng ta sẽ liệt kê những khuôn mẫu liên quan đến Giáo Hội, rồi sau đó sẽ đề cập tới những khuôn mẫu liên quan đến chính cuộc cử hành Thánh Thể. 

1- Giáo Hội sau Công Đồng Va-ti-ca-nô II coi mình là “nhóm môn đệ được tha thứ” của Chúa Ki-tô và là những tội nhân được chúc phúc, được Đức Chúa Cha mời gọi và ủy thác cho trách nhiệm cùng với Chúa Giê-su, biến toàn thể thế giới con người thành Nước Thiên Chúa. Khi những môn đệ coi mình là các tội nhân ở trong Giáo Hội, thì không những họ chỉ nhìn nhận mình thấp hèn tội lỗi, nhưng nhất là còn nhìn nhận rằng, mặc dù là tội nhân, nhưng họ cũng được Thiên Chúa chấp nhận. Hơn nữa, họ gọi nhau, cá nhân cũng như tập thể, là những người biết đón nhận các tội nhân khác mà không tỏ thái độ khinh bỉ các tội nhân này như thái độ của Do Thái Giáo. 

        Phải chăng chúng ta coi mình là những người tốt, đáng được Đức Chúa Cha chấp nhận, những tội nhân được ân xá, hay vẫn coi mình là những kẻ bất xứng khi đến trước tôn nhan Chúa? Trên căn bản cộng đoàn, chúng ta có nồng nhiệt tiếp đón những người tội lỗi, những ngưởi bị ruồng bỏ và những người sống ngoài lề xã hội không? 

2- Giáo Hội đó, trong cả hai lãnh vực: phụng vụ và cuộc sống, luôn nhìn mọi người, không như những khán giả hay những cá thể thụ động, nhưng như những tác nhân chủ động. Chúng ta đã lãnh nhận được mọi phúc lành thiêng liêng trong Đức Ki-tô. Như vậy, giáo dân cũng như các thừa tác viên khác thi hành chức vụ của mình cách tự nhiên và bộc phát. Chúng ta không được coi người giáo dân hoàn toàn chỉ là người phụ giúp của linh mục, đặc biệt trong những lúc thiếu linh mục, nhưng linh mục cũng như giáo dân đều hoạt động sát cánh nhau để phục vụ cho Giáo Hội và thế giới. 

        Chúng ta có thể cộng tác với giáo dân ngay cả trong lãnh vực đưa ra quyết định không? Chúng ta đã huấn luyện và giáo dục giáo dân thế nào để họ có thể nắm giữ những vài trò chính đáng của họ trong Giáo Hội? 

3- Giáo Hội ngày nay không coi phụng vụ như một món đồ gói sẵn, nhưng là một cuộc hội họp nhân danh Chúa Giê-su để cùng nhau nói và hành động. Vì thế trong khi cử hành phụng vụ, chúng ta không nên đặt chú tâm vào những “tờ kinh” in sẵn các bài đọc trong ngày, nhưng phải đặc biệt tán dương chính mình cũng như những người khác đã tụ họp lại để làm thành những phần tử của cộng đoàn gồm những người biết quan tâm và săn sóc lẫn nhau. 

        Mức độ chân thực và tự phát của ta trong khi cử hành Thánh Thể ra sao? Phải chăng thái độ của ta vẫn còn khắt khe và hình thức, còn quá gắn bó với sách vở, quá quan tâm đến luật chữ đỏ? Phải chăng cuộc cử hành của ta là cuộc vui mừng khi họa lại hình ảnh Chúa Phục Sinh. 

4- Ngoài ra, dân chúng là một dân “thánh”, họ được qui tụ lại không phải chỉ để cầu nguyện và suy niệm cá nhân, cũng không phải chỉ để kết hiệp riêng với Chúa, hay để tìm kiếm những cảm khoái do các lễ nghi phát sinh ra, như việc xông hương hoặc âm thanh réo rắt của tiếng đàn dương cầm. Nhưng thực ra, họ qui tụ lại là để cầu nguyện chung với nhau và theo phụng vụ, trong khi ý thức rằng, phụng vụ là việc phượng tự công cộng được thực hiện do những người tự nguyện và biết chăm lo săn sóc cho nhau. Họ tụ họp lại trước tiên là để “làm cái gì” cho nhau. Đối với họ, cầu nguyện theo phụng vụ không phải là một “diễn từ chung” mà người ta nói với Thiên Chúa, nhưng là những lời người ta nói với nhau và Thiên Chúa nghe được. 

        Chúng ta coi cốt yếu của Phụng Vụ Thánh Thể là một hành vi tôn thờ hay hành vi xây dựng cộng đoàn? Chúng ta có cố gắng thực hành nghệ thuật gặp Chúa nơi người khác không? 

5- Đối với Giáo Hội ngày nay, chủ yếu của Phụng Vụ Thánh Thể là TẠ ƠN, điều đó không những có nghĩa là tri ân, kính sợ, khâm phục và tôn kính, nhưng còn là sự dấn thân để nhìn nhận Thiên Chúa, để tuyên xưng niềm tin rằng họ là những người được Thiên Chúa chúc phúc và sống trong thế giới được chúc phúc, và họ muốn sống theo niềm tin ấy. Khi gọi nghi thức là Thánh Thể, họ muốn nói với nhau rằng, Thiên Chúa là Thiên Chúa tốt lành, Ngài đã dựng nên thế giới này, đó là một thế giới tốt đẹp và họ ý thức rằng, họ được kêu gọi để bảo tồn, sửa chữa hoặc xây dựng thế giới tốt đẹp này. Khi dâng lời tạ ơn về bánh được bẻ ra và chén được chia sẻ, khi gọi bánh và rượu là Mình và Máu Chúa Kitô, họ tuyên xưng rằng, họ gắn bó cuộc đời với ơn kêu gọi đặt mối hiệp nhất và lợi ích của gia đình nhân loại lên trên mọi giá trị khác, đặc biệt là lên trên những mối quan tâm riêng của họ. 

        Chúng ta đã thực sự trở nên những người biết ơn thế nào? Phải chăng chúng ta vẫn để thói phàn nàn, cáu kỉnh và nói lén, phê bình, chỉ trích, bới móc,… làm chủ trong ta? Hay chúng ta tưởng nhớ cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trong sự Phục Sinh của Người? 

6- Khi tụ họp lại để cử hành Thánh Thể, người ta thường tìm cách phác họa hình dạng ơn kêu gọi ki-tô hữu trong thế giới này bằng hành động bí tích. Họ tự xưng là cộng đoàn gồm những người được tha thứ và tha thứ, những người tích cực nghe Lời Chúa. Đối với họ, Thánh Thể không nguyên chỉ là Bánh Thánh, nhưng còn là trọn cả cuộc cử hành Thánh Thể từ đầu tới cuối, được toàn thể Giáo Hội thực hiện vì thế giới. 

        Trong khi cử hành Thánh Thể, chúng ta ý thức thế nào về thế giới? Đối với chúng ta, phải chăng toàn thể cuộc cử hành Thánh Thể đều quan trọng như nhau? hay chỉ có phần Truyền Phép hoặc Hiệp Lễ? Chúng ta chú tâm đến Lời Chúa được công bố thế nào? 

7- Khi người ta truyền phép, rồi chia sẻ bánh và rượu bằng những lời nói về sự chết, sự phục sinh, giao ước và hi lễ, họ khẳng định rằng: Thiên Chúa thánh hiến mọi mối quan tâm và chia sẻ của con người, sự sống của Chúa Giê-su đã đổ ra để thánh hiến những mối quan tâm và chia sẻ ấy và họ dấn thân để chia sẻ 

sự sống của Người. Đối với họ, mọi bí tích đều là “dấu chỉ” để nói lên những gì họ đang hi vọng và hiện trạng của họ lúc này thế nào 

        Mối quan tâm, sự săn sóc và chia sẻ của ta trong cộng đoàn chân thực và sâu xa thế nào? Chúng ta có nhìn vào những khuyết điểm của người khác với lòng cảm thương không? và có giúp nhau để lớn mạnh hơn không? Chúng ta có lưu tâm đến sự phát triển của người khác không? 

8- Đồng thời, như những dấu chỉ của hi vọng, những cử chỉ biểu lộ sự săn sóc và chia sẻ là những hành động biểu lộ những gì họ hi vọng và những gì họ dấn thân cho, với quyết tâm xây dựng một thế giới, tuy chậm chạp, khó khăn và không hoàn chỉnh, nhưng họ nhất quyết xây dựng một thế giới trong đó mọi người đều là những người thân cận vơi nhau, hay đúng hơn, là những anh chị em với nhau. 

        Những nỗ lực của ta liên tục và bền bỉ ra sao trong công cuộc xây dựng cộng đoàn thực sự ở giữa chúng ta? Phải chăng chúng ta vẫn giữ lại những vết thương cũ, vẫn làm cho chúng mới mẻ lại bằng cách không ngừng khêu gợi lên? Chúng ta có thường khởi đầu lại những mối tương quan của ta không? 

Chương 4 

KINH NGUYỆN THÁNH THỂ, TIÊU ĐIỂM ĐỂ NHÌN TOÀN THỂ THÁNH LỄ

THEO ĐƯỜNG LỐI MỚI 

        Điều nên nhớ, sự thay đổi khuôn mẫu có nghĩa là khi bạn nhìn một sự vật cũ, nhưng theo cách nhìn mới, thì thực tại ấy tuy vẫn là thực tại cũ, nhưng sẽ trở thành mới. Nếu không nhìn thực tại theo cách mới ấy, chúng ta sẽ rơi vào tình trạng “xé áo mới lấy vải vá vào áo cũ” (Lc.5:33-36). 

1-Trong cuộc cử hành Thánh Thể, Dân Chúa ngày nay chia sẻ với nhau những gì họ thực sự tin tưởng, họ tin rằng tự bản chất, sự sống là cốt yếu của mọi sự và họ dấn thân để sống triệt để niềm tin ấy. Không nguyên bằng lời nói, nhưng nhất là bằng những cử chỉ chia sẻ Mình và Máu Chúa Ki-tô, họ cầu xin Thiên Chúa là Đấng ban phát mọi ơn lành và tuyên xưng rằng bản tính nội tại của Thiên Chúa được biểu lộ cách trọn vẹn nhất ở nơi Chúa Ki-tô, Đấng đã ban sự sống mình cho người khác. Cũng vậy, người ta coi mình là những kẻ được mời gọi đến để chia sẻ sự sống của Thiên Chúa nhân hậu ấy, không những với nhau, nhưng còn với cả thế giới nữa.

          Đối với tôi, hay đối với chúng ta, đời sống thực sự có ý nghĩa gì? Mục đích và tham vọng của tôi nơi cuộc sống thế nào? Trong 5 hoặc 10 năm nữa, tôi muốn thấy tôi thế nào? Hình ảnh nào về Thiên Chúa mà tôi thường kêu cầu nhất?, Ngài là: Cha – Abba, Đấng Quan Phòng, Vị Thẩm Phán, Đấng Tha Thứ đầy cảm thương, Bạn Đồng Hành trung thành v.v.? Tôi có chia sẻ quan điểm đó với người khác không? và tôi có học hỏi những kiến thức của người khác không? Chúng ta rèn luyện thế nào để có thể nhìn nhận mọi ân huệ tốt lành đều phát nguồn từ nơi Cha trên trời? Chúng ta có ý thức rằng khi hiến thân cho người khác là chúng ta trở nên giống Thiên Chúa nhất không? 

2- Trong phụng vụ, Giáo Hội ngày nay ý thức rằng, người ta không cần lệ thuộc vào bản văn (nghĩa là không được làm nô lệ cho bản văn), nhưng phải gắn liền bản văn với cuộc sống (nghĩa là phải làm cho bản văn nhập thể vào cuộc sống) và gắn liền cuộc sống với bản văn (nghĩa là phải đưa chính kinh nghiệm của mình vào những lời được công bố, tức là bản văn phải thực sự nói lên chính kinh nghiệm của ta). Bởi thế, dân chúng cần ý thức rõ họ phải có những thái độ nào trong khi cử hành Thánh Thể. 

        Chúng ta có đưa những hoàn cảnh của cuộc sống vào Thánh Lễ không? Việc đưa đời sống vào Thánh Lễ có tác dụng gì đối với cuộc cử hành Thánh Thể của tôi, và đối với đời sống của tôi, sau khi cử hành Thánh Thể? Lời Chúa chỉ có ý nghĩa khi đời sống của tôi phù hợp (hay gắn bó) với bản văn, nếu không, Lời Chúa chẳng có chút liên hệ gì với tôi cả, tôi có ý thức điều đó không? 

3- Giáo Hội luôn tìm cách hiểu rõ hơn vai trò của người tín hữu trong cuộc cử hành Thánh Thể: Khi giáo dân thi hành những việc được thực hiện ở trong nhà thờ, điều đó có ý nghĩa gì? Đối với họ, vai trò của Kinh Nguyện Thánh Thể là nói lên những gì được thực hiện qua toàn thể tác động nghi thức. Như vậy, khi tụ họp, kể chuyện cuộc đời, cầm lấy bánh và rượu, chia sẻ bánh rượu ấy, Kinh Nguyện Thánh Thể nói lên ý nghĩa gì qua những động tác ấy. Dưới đây chúng ta sẽ tìm hiểu những ý nghĩa ấy. 

– TỤ HỌP (Những Nghi Thức Khởi Đầu). 

        Tôi có liên kết Nghi Thức Nhập Lễ với Kinh Nguyện Thánh Thể không? bằng cách nào? Nghi thức Nhập Lễ nhắm vào sự hiện diện của Chúa Ki-tô như trung tâm của cuộc cử hành Thánh Thể, vậy tôi có để Chúa Ki-tô gom tôi lại (nghĩa là gom mọi thành phần thuộc hữu thể và cuộc sống của tôi) và tiến dâng lên Đức Chúa Cha không? Vì chúng ta qui tụ lại thành một gia đình, vậy trong Kinh Nguyện Thánh Thể, tôi có ca tụng Thiên Chúa Cha về những niềm vui và thành công của người khác không? 

– KỂ CHUYỆN ĐỜI TA (Phụng Vụ Lời Chúa)

        Tôi nhận ra phản ảnh của câu chuyện đời tôi ở nơi nào trong Kinh Nguyện Thánh Thể? Chẳng hạn trong Kinh Nguyện Thánh Thể II: “Chúng con cảm tạ Cha đã cho chúng con được xứng đáng…”, phải chăng những lời này liên kết với hoàn cảnh nào đó của cuộc sống cụ thể mà trong đó tôi cho mình là xứng đáng? Hãy dùng mỗi câu trong Kinh Nguyện Thánh Thể II rồi tìm hiểu xem câu ấy thực sự diễn tả câu chuyện riêng của đời bạn ra sao? Bạn có thể thực hiện như vậy đối với các Kinh Nguyện Thánh Thể khác. 

– CẦM LẤY BÁNH VÀ RƯỢU (Phần chuẩn bị lễ vật). 

        Khi tiến dâng lễ vật, tôi có cố gắng ý thức sâu xa về những tài năng Chúa ban cho tôi không? Tôi đã cố gắng cách nghiêm chỉnh và có hệ thống thế nào để phát huy những tài năng của tôi, để đạt những kỹ năng mới, để học những phương thức mới trong việc xử lý các hoàn cảnh khó khăn? Tôi có “mài sắc” những lãnh vực khác nhau của đời tôi để đạt tới con người quân bình và toàn vẹn không? Tôi có từ chối những cơ hội thuận tiện Chúa ban để giúp tôi lớn lên không? Tôi đã tích cực tới đâu và thế nào để giúp những người khác: ở trong cũng như ở ngoài cộng đoàn của tôi, để họ lớn lên không? Phong Trào Tổng Chất (Total Quality) nói: Hãy chớp ngay thời cơ. Ngày mai phải nên tốt hơn ngày hôm nay. Phải chăng đó là thái độ thường xuyên của tôi trong mọi lãnh vực của đời sống? 

– VÀ CHIA SẺ CHÚNG (Hiệp Lễ). 

        Tôi đã thực hiện việc chia sẻ thế nào trong cuộc cử hành Thánh Thể? Tôi đã cố gắng tới mức nào trong việc xử dụng mọi tài năng để phục vụ người khác? Phải chăng những tài năng của tôi là để cống hiến cho và chia sẻ với những người khác cách tự nguyện, quảng đại, và nhất quán? Những ân huệ nào tôi giữ lại cho riêng mình hay chỉ giới hạn vào trong một nhóm giới hạn nào đó? Tôi có nhận thức rằng lời cảm tạ tốt đẹp nhất về các ân huệ Chúa ban là xử dụng chúng cách quảng đại để mưu ích cho người khác? Tôi có để những người khác có cơ hội để chia sẻ những ân huệ hay tài năng của họ với tôi không? 

        Như vậy, Kinh Nguyện Thánh Thể đóng vai trò tương tự như cái trướng lớn hay chiếc dù bao phủ toàn thể những động tác chính yếu của cuộc cử hành Thánh Thể và nói lên ý nghĩa của các động tác ấy. Đặc biệt, Tường Thuật Thiết Lập Thánh Thể không những nêu rõ những gì linh mục thực hiện trên bàn thờ, mà còn nói lên ý nghĩa của tất cả những gì mà mọi người hiện diện thi hành khi họ tụ họp lại để cử hành Thánh Thể. 

        Tôi muốn ám chỉ gì về bốn hành động được đề cập tới trong Tường Thuật Lập Thánh Thể: Cầm lấy… dâng lời chúc tụng… bẻ ra… trao ban…? Tôi muốn ám chỉ gì về bốn động tác ấy trong khi cử hành Thánh Thể? trong cuộc sống sau khi cử hành Thánh Thể? Phải chăng tôi tiếp tục “tuyên xưng Mầu Nhiệm Đức Tin” khi đường đời gập ghềnh, khi người khác yêu sách tôi, khi những chướng ngại chồng chất trên bước đường của tôi? Tôi xử lý những phản bội trong cuộc đời tôi thế nào? Phải chăng tôi coi những phản bội ấy như thành phần của cuộc sống Thánh Thể mà tôi cử hành? Có khi nào tôi phản bội hay bỏ mặc người khác bằng cách phao tin thất thiệt, nói xấu, chủ ý nhưng kín đáo tìm cách hại người khác hay xúc phạm đến họ, gây trở ngại cho họ, hoặc để lòng ghen tỵ với họ không? 

Chúng ta đến với nhau không phải để nói những lời trên bánh và rượu, nhưng là để thực hiện một số sự việc, đó là: cầm lấy bánh và rượu để cảm tạ và chúc tụng, để chia sẻ bánh và rượu ấy với nhau. Chính những hành động ấy làm thành cuộc tưởng niệm Chúa Giêsu[1]. Đây là động tác nghi thức, chính nhờ động tác này mà chúng ta cử hành cuộc giao hòa với Thiên Chúa. Nhờ chia sẻ bánh và rượu được truyền phép, chúng ta được nuôi dưỡng nhờ Chúa Ki-tô, Đấng đã chết và sống lại vì ta. 

        Cuộc tưởng nhớ Chúa Giê-su của tôi sâu xa và có tính cách cá nhân thế nào? Cuộc tưởng nhớ lễ hiến thân của Chúa Giê-su có thúc đẩy tôi hành động và hiến thân tôi cho người khác tương tự như vậy không? Cuộc cử hành Thánh Thể của tôi có giúp tôi xây dựng cộng đoàn giáo xứ hay đền thánh, nhưng đồng thời lại phá vỡ cộng đoàn thánh thể của tôi hay không? Tôi có nhận thấy, tôi được giao hòa và tôi cũng giao hòa với giáo dân và với các phần tử trong cộng đoàn Thánh Thể của tôi không? Chúa Giê-su đã chết thay cho tôi (2Cor.5:14-15) để tôi sống cho Người, tôi có xác tín sâu xa điều đó không? Sứ vụ của Chúa Giê-su hệ tại làm cho người ta nhận biết lòng thương xót của Đức Chúa Cha, phải chăng đó cũng thực sự là sứ vụ của tôi? 

 Chương 5 

PHỤNG VỤ THÁNH THỂ, KHỞI ĐIỂM ĐỂ PHÁT TRIỂN LINH ĐẠO THÁNH THỂ CANH TÂN 

1- Điều Giáo Hội ngày nay thực hiện là “để tưởng niệm Chúa Giê-su”, vì điều mà Giáo Hội thực hiện khi tụ họp lại với nhau là đồng hóa mình với cộng đoàn tiếp rước, tha thứ và biến đổi trong sự hiệp nhất với Chúa Ki-tô, Đấng đã đến để giao hòa thế gian với Thiên Chúa. Khi cộng đoàn đáp lại Kinh Nguyện Thánh Thể bằng lời thưa AMEN, cộng đoàn đồng hóa mình với các tội nhân được tha thứ và được kêu mời đến với cộng đoàn của các tội nhân. Lễ hi sinh họ dâng hiến chính là sự dấn thân cho cuộc sống được thành hình và được biến đổi nhờ sự chăm lo săn sóc cho người khác. Các tội nhân được đón tiếp bao gồm cả chính họ nữa. Khi người ta cảm nghiệm, mình được chấp nhận thế nào, họ cũng sẽ phải yêu thương và chấp nhận người khác như vậy. 

        Cộng đoàn của ta được trở thành cộng đoàn đón tiếp, tha thứ và biến đổi ra sao? Tôi đã tích cực đóng góp vào công cuộc ấy thế nào? Tôi ý thức mình là tội nhân được tha thứ thế nào trong từng giây từng phút chứ không phải chỉ sau khi cử hành Bí Tích Giao Hòa? Tôi có nhìn nhận giao hòa là một ân huệ của Thiên Chúa không? Ơn tha thứ tôi nhận được có giúp tôi sẵn sàng tha thứ cho người khác không? Đời sống hằng ngày của tôi được biến đổi ra sao nhờ Thánh Thể? Phải chăng “chăm lo săn sóc cho người khác” là mối quan tâm chính yếu của tôi đối với những người ở trong cũng như ngoài cộng đoàn? Trong khoảng 3 hay 6, hoặc 12 tháng vừa qua, tôi đã tiến bộ thế nào trong sự chấp nhận chính mình? Tôi chỉ có thể yêu thương (tha thứ) cho người khác tùy theo mức độ tôi yêu thương hoặc tha thứ cho chính tôi, tôi có ý thức sâu xa về điều đó không? 

2- Qua những lời cầu xin trong Thánh Lễ, người ta nhìn nhận rằng, công cuộc thiết lập Vương Quốc chưa phải là sự kiện đã hoàn tất. Họ cầu xin cho những gì nơi cuộc đời họ cũng như trong thế giới này được hoàn tất. Nhờ những lời cầu xin này (ngay cả Lời Nguyện Giáo Dân), họ thú nhận và lãnh trách nhiệm về công cuộc chưa hoàn tất của Thiên Chúa nơi nhà Ngài. Tuy nhiên, họ tin rằng, Thánh Thần của lời hứa sẽ đưa công cuộc của Thiên Chúa tới chỗ hoàn thành. Các Thánh được nhắc tới trong Thánh Lễ là để nâng đỡ niềm hi vọng vào sự hoàn tất của lời hứa này, nếu người ta cộng tác. 

        Trong tương quan hằng ngày với người khác, tôi có đòi họ phải là những người hoàn hảo không? Phải chăng Nước Trời đã đến với tôi rồi, hay vẫn còn là một thực tại thuộc tương lai? Trong đời sống cá nhân, cộng đoàn, xứ đạo hay đền thánh, tôi nhận thấy dấu hiệu nào chứng tỏ Nước Thiên Chúa đã đến? Tôi đã làm gì để chứng tỏ chính vì tôi, mà Nước Thiên Chúa chưa được hoàn hảo nơi cuộc sống tôi? Khi tên các Thánh được đề cập tới, điều đó có nhắc nhở tôi rằng, Thiên Chúa vẫn tiếp tục hoạt động nơi cuộc đời tôi không? Tôi có tin rằng một ngày kia Chúa Thánh Thần sẽ hoan tất công cuộc của Ngài nơi cuộc đời tôi không? 

3- Những công thức sám hối không nhằm mục đích kêu gọi ta xét lại những tội lỗi của mình, nhưng là tuyên xưng rằng Thiên Chúa nhân từ với họ. Đặc điểm chính của các công thức này là thái độ tri ân. Lời cầu xin: “Lạy Chúa, xin thương xót chúng con” phải hiểu là: “Lạy Chúa, Chúa có và là nguồn mạch thương xót của chúng con”. Các tín hữu kêu gọi nhau trở nên cộng đoàn thương xót, nơi mà những người tội lỗi và những người có tâm hồn bị dập nát được đón tiếp nồng nhiệt. Cũng như người ta nhìn nhận bàn thờ dâng lễ hi sinh là bàn tiệc đón tiếp mọi người, thì khi dâng lễ hi sinh là chính cuộc đời họ trên bàn thờ này, họ cũng đoan hứa sẽ đón tiếp, chữa lành và dưỡng nuôi người khác sau khi chính họ đã được đón tiếp, chữa lành và nuôi dưỡng. 

        Phải chăng Nghi Thức Sám Hối giúp tôi thâm tín rằng Thiên Chúa đã tha thứ cho tôi rồi? Tôi có thực sự chúc tụng và cảm tạ Chúa vì ơn tha thứ của Ngài không? Tôi có thường khích lệ người khác tỏ lòng từ bi thương xót không? Tôi có tin rằng Thánh Thể là nơi an toàn nhất để xưng thú những tội lỗi và thiếu sót của tôi không? Tôi có đón tiếp, chữa lành và dưỡng nuôi người khác trong cuộc sống hằng ngày của tôi không? 

4- Là những người tích cực lắng nghe Lời Chúa được công bố, cộng đoàn dân Chúa nhìn nhận rằng họ không nguyên chỉ đón nhận Lời Chúa trong cuộc sống của mình mà thôi, nhưng còn có bổn phận phải công bố Lời Chúa bằng lời nói và nhất là bằng hành động nữa. Họ đón nhận Lời Chúa không phải dưới hình thức rõ ràng hay tinh tuyền, nhưng là bị “khúc xạ” qua lăng kính đời sống và cộng đoàn của các Thánh Sử, điều đó nhắc nhở họ rằng, ngày nay Lời Chúa cũng phải được trình bày thế nào cho phù hợp với bối cảnh hiện tại. 

        Tôi có chia sẻ với người khác những gì Lời Chúa cống hiến cho tôi mỗi ngày không? Lời Chúa ảnh hưởng đến đời sống tôi ra sao? Tôi có cố gắng tìm hiểu Lời Chúa mà tôi công bố hằng ngày bằng cách xử dụng các tài liệu chú giải không? Tôi có cố gắng tìm hiểu Lời Chúa theo như Lời ấy được gởi đến cộng đoàn của các Thánh Sử không? nghĩa là theo bối cảnh của cộng đoàn ki-tô hữu vào khoảng các năm 65, 85, 100 sau Chúa Ki-tô không? Tôi có tin rằng, ngày nay Thiên Chúa vẫn nói với tôi qua các biến cố của cuộc đời tôi không? 

        Nói tóm lại, nếu có gì tương phản giữa cuộc cử hành Thánh Thể ngày nay và những gì được diễn ra trước Công Đồng Va-ti-ca-nô II, đó là vì ngày nay Giáo Hội nhìn nhận ơn kêu gọi ki-tô hữu là ơn kêu gọi của niềm vui. Chắc chắn Thánh Lễ trước Công Đồng Va-ti-ca-nô II cũng có những nét vui tươi, nhưng một cách nào đó, đặc điểm nổi bật của các cuộc cử hành thời ấy là lời kêu gọi đáng khiếp sợ do ý niệm về mầu nhiệm phát sinh ra. Chúng ta được kêu gọi không nguyên chỉ để khám phá niềm vui của riêng ta, nhưng còn để giúp những người khác và cả thế giới khám phá niềm vui của họ nữa. Là những người đã được lãnh nhận ơn thương xót, chúng ta cũng được kêu gọi để “ra đi và thực hiện như vậy”.

TÓM TẮT NHỮNG HIỂU BIẾT

VỀ SỰ CANH TÂN 

        Những nét đại cương về cử hành Thánh Thể sau Công Đồng Va-ti-ca-nô II có thể tóm tắt như sau: 

        * Khi tụ họp lại với nhau, chúng ta đồng hóa mình với cộng đoàn lãnh nhận và cống hiến ơn thương xót của Chúa (Nghi Thức Mở Đầu). 

        * Chúng ta coi mình là cộng đoàn của những kẻ lắng nghe và công bố Lời Chúa, vai trò ấy được tóm lại trong Kinh Tin Kính và trong lời nguyện để cầu cho mọi nhu cầu của nhân loại (Phần Phụng Vụ Lời Chúa). 

        * Chúng ta cầm lấy bánh và rượu, những dấu chỉ của thế giới tạo vật và của kỹ năng, cùng với cố gắng của con người, của nghệ thuật và thông minh, được nhấn mạnh qua nghi thức tiến dâng lễ vật được tượng trưng bằng tiền bạc (Chuẩn bị bàn thờ và lễ vật). 

        * Chúng ta cảm tạ và chúc tụng trong khi đồng hóa mình với Chúa Ki-tô, Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta, trong khi cầu xin để đời sống Người được hoàn tất nơi chúng ta nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, đồng thời đoan hứa sống đời sống của Chúa Ki-tô giữa trần gian (Kinh Nguyện Thánh Thể). 

        * Chúng ta thể hiện sự dấn thân để chia sẻ đời sống Chúa Ki-tô bằng cách kêu cầu Thiên Chúa là Cha, trao đổi bình an cho nhau và cùng nhau chia sẻ bàn tiệc của Chúa (Nghi Thức Hiệp Lễ). 

        * Chúng ta ra đi để biến đổi thế giới, với ý thức rằng chúng ta đã được chuẩn bị đầy đủ nhờ được gặp Chúa Phục Sinh hiện diện nơi cộng đoàn những kẻ tin (Nghi Thức Kết Thúc). 

        Tôi xin mạn phép hỏi bạn một câu hỏi để nghiên cứu: 

        Theo ý bạn, điểm duy nhất nào hiện giờ chúng ta không thể thực hiện được, và nếu thực hiện được, liệu toàn thể cuộc sống của bạn có thay đổi hoàn toàn không?

PHẦN III 

TÌM HIỂU TỪNG BƯỚC CỦA CUỘC CỬ HÀNH 

Chương 1 

NGHI THỨC THỐNG HỐI 

        Trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu NGHI THỨC THỐNG HỐI. Theo phụng vụ, phần này được gọi là “Confessio laudis” (Tuyên xưng lời chúc tụng). Tựa đề đó cho biết quan điểm về Linh Đạo Thánh Thể Canh Tân của phần này. 

        Quan niêm xưa dạy chúng ta phải coi mình là những người tội lỗi từ A đến Z: Chúng ta sinh ra trong Tội Tổ Tông; suốt cuộc sống, chúng ta liên tiếp sống trong tội, rồi được tha thứ, rồi tái phạm và lại được tha thứ… và cứ thế cho tới trước khi lìa trần, chúng ta lãnh Bí Tích Xức Dầu để bảo đảm cho cái chết trong ơn nghĩa Chúa. Vì thế, suốt cuộc đời tội lỗi, chúng ta không ngừng kêu cầu lòng thương xót của Chúa. Bởi vậy trong cuộc cử hành Thánh Thể, lời cầu xin: “Lạy Chúa, xin thương xót chúng con” là lời nài xin ơn tha thứ của Chúa. Nhạc điệu được xử dụng trong phần này, ngay cả bây giờ, cũng hầu hết là âm thứ (Minor key) để diễn tả lòng đau đớn, bất lực, bất xứng và những đặc điểm tiêu cực khác. Tất cả đều qui về chúng ta. 

        Tuy nhiên, Giáo Hội sơ khai ý thức sâu xa rằng, nhờ Chúa Giê-su, Đức Chúa Cha đã giáng phúc xuống trên ta rồi: “Từ cõi trời, Ngài đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” (Eph.1:3-10). Tội lỗi chúng ta “đã được đóng đinh vào thập giá” qua cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người rồi. Như vậy, giờ đây chúng ta chỉ cần chấp nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa cách tri ân và tuyên xưng lòng nhân hậu của Ngài mà thôi. Vì thế, trong Linh Đạo Thánh Thể Canh Tân, Nghi Thức Thống Hối không được coi là lời cầu xin ơn tha thứ nữa, nhưng là LỜI CHÚC TỤNG và TẠ ƠN về ơn tha thứ đã được ban xuống cho ta cách rộng rãi và phong phú qua Đức Ki-tô và chúng ta đã cảm nghiệm được ơn ấy nơi cuộc sống hằng ngày rồi. Chủ yếu của phần này hoàn toàn nhắm vào Thiên Chúa và ơn tha thứ của Ngài. 

        Suy niệm về bữa tiệc mà Chúa Giê-su tham dự ở nhà ông Si-mon, người Pha-ri-sêu (Lc.7:36-50), chúng ta nhận thấy, Chúa Giê-su nói về người phụ nữ tội lỗi đã rửa chân Người bằng nước mắt rằng: “bà đã được tha nhiều, chẳng vậy bà đã không biểu lộ một tình yêu lớn lao như vậy…còn người được tha ít thì chỉ biểu lộ một tình yêu nhỏ bé thôi”. Người đàn bà đã cảm nghiệm được ơn tha thứ của Chúa và được Người ôm ấp vào lòng từ lâu, trước khi bước vào phòng tiệc; chính nhận thức đầy hoan lạc về ơn tha thứ ấy đã thúc đẩy và dẫn bà đến với Chúa. Vì thế, bà đến không phải để xin ơn tha thứ, nhưng là để biểu lộ lòng tri ân. Đó cũng phải là thái độ của chúng ta trong cuộc cử hành Thánh Thể. Thái độ ấy không những chỉ được biểu lộ qua Nghi Thức Thống Hối mà thôi, nhưng còn trong suốt cả cuộc cử hành Thánh Thể nữa. 

        Trong tiếng Hi Lạp, thành ngữ “Kyrie eleison” không có nghĩa là lời cầu khẩn để xin ơn, nhưng là lời tung hô chúc tụng Chúa vì ơn giao hòa Ngài đã ban xuống cho ta. Kinh Kyrie được hát trong cuộc rước khởi đầu phụng vụ các trạm, do đó kinh này ám chỉ, chúng ta có thể tham dự cuộc rước được, vì biết rằng chúng ta đã được tha thứ và được đưa về đoàn chiên duy nhất của Chúa Giê-su, Đấng Mục Tử vĩnh cửu. 

NHỮNG SUY NIỆM THỰC HÀNH 

1- Cốt yếu của tội không hệ tại vi phạm lề luật hoặc giới răn, nhưng là CHỐI BỎ TÌNH YÊU và SỰ SỐNG CỦA THIÊN CHÚA, đó là lựa chọn tự do, ý thức và cố tình sống giam mình vào tù ngục của bản ngã. Tội là bỏ nhà Cha, như đứa con hoang đàng đã hành động, để sống tự lập… ăn những đồ ăn của heo. Hãy nhớ lại “thân phận loài heo” theo quan niệm của người Do Thái. 

2- Hãy cho giáo dân biết, có nhiều phương thế đem lại ơn tha thứ: Bí Tích Giao Hòa (đặc biệt dành cho tội trọng), đối với các tội nhẹ, bất kỳ phương thế nào sau đây cũng có hiệu quả tương đương: Thánh Thể, cầu nguyện, bố thí, ăn chay, cáo lỗi riêng, lễ nghi sám hối… Mỗi phương thế đều đem lại cho ta ơn tha thứ của Thiên Chúa về những thiếu sót hằng ngày, tất nhiên chúng ta phải luôn có lòng thống hối, phải muốn được ơn tha thứ và trở về với Cha. 

3- Trong cuộc cử hành Thánh Thể, khía cạnh hân hoan vì đã được ơn tha thứ cần phải được nhấn mạnh theo cách thức tích cực hơn. Ngay trước khi Rước Lễ, câu “Lạy Chúa, con chẳng đáng …”, đôi khi cũng có thể đổi thành: “Lạy Chúa, cảm tạ Chúa vì ơn hiệp thông Chúa ban cho chúng con nơi Thánh Thể này”. 

4- Hãy khuyến khích dân trở thành những thừa tác viên cho nhau về ơn tha thứ bằng cách thể hiện sự tha thứ cho nhau về những khuyết điểm hằng ngày. Đây là ý nghĩa của câu: “Anh em cầm buộc những gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; anh em tháo cởi những gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy” (Mt.18:18; Ga.20:23). Trong Lu-ca:1-4, chúng ta cầu xin: “Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”. Như vậy, trong chính hành vi tha thứ cho người khác và tùy theo mức độ chúng ta tha thứ cho họ mà tội lỗi chúng ta cũng được tha. Các đoạn Mt.6:14 và 18:32-35, cũng nhấn mạnh, nếu chúng ta không tha thứ cho người khác thì Thiên Chúa cũng sẽ không tha thứ cho ta. 

5- Tha thứ và lãnh nhận sự tha thứ có thể được thực hiện tại gia đình khi mọi người tụ họp nhau để cầu nguyện: Cha mẹ tha thứ cho con cái và mọi người tha thứ cho nhau, đồng thời mọi người cũng xin người khác tha thứ cho mình. Cống hiến và lãnh nhận sự tha thứ phải được cử hành cách đầy ý nghĩa. Đôi khi những cuộc cử hành ấy có thể được thực hiện nơi các Cộng Đồng Ki-tô Hữu Cơ Bản và trong các cộng đoàn Thánh Thể (Luật Sống Dòng Thánh Thể, #5,9,25,42). 

6- Trong cuộc xét mình hằng ngày, nên chú tâm vào những ơn chúng ta nhận được trong ngày và coi những thiếu sót như những bội bạc đối với các ơn ấy. 

7- Bí Tích Hòa Giải (Xưng Tội), cũng như các bí tích khác, phải được coi là cuộc cử hành tình yêu đầy xót thương của Chúa tuôn đổ xuống trên chúng ta qua những cảm nghiệm của cuộc sống hằng ngày. Cuộc cử hành bí tích như vậy có thể làm phát sinh niềm vui cho ta cách hiệu quả. 

8- Những thiếu sót và giới hạn hằng ngày của ta là thành phần cấu tạo của thân phận con người và là mẫu mực cho nỗ lực của ta để đáp lại tình yêu phi thường mà Thiên Chúa dành cho ta. Những thiếu sót ấy không hề ảnh hưởng hay biến đổi tình yêu của Thiên Chúa đối với ta. Chúng ta không cần phải nên hoàn thiện trước, rồi mới có thể đến với Chúa, Đấng luôn chấp nhận và yêu thương ta. Bởi thế, chưa từng ai nghe biết về một “linh đạo của sự bất toàn” bao giờ. 

9- Chúng ta cần tỏ ra khoan dung với những lỗi lầm và giới hạn của người khác, vì chúng ta cũng đầy những khuyết điểm và giới hạn. Đừng tìm cách cất cái rác nơi mắt anh chị em, trong khi nơi mắt mình vẫn còn cái xà. Không nhìn nhận như vậy là giả hình (Coi: Mt.7:1-5). 

10- Cử hành tình yêu đầy thương xót của Thiên Chúa như vậy là chúng ta thực sự trở thành dân thánh thể, nghĩa là trở thành dân biết tri ân. Những gì chúng ta là và chúng ta có, tất cả đều là ân huệ được Chúa ban cách dồi dào và phải được đón nhận với tấm lòng biết ơn sâu xa. Vì thế, trong mối tương quan với người khác, ta phải biểu lộ thái độ tích cực và khích lệ hơn là tìm cách phê bình chỉ trích và kết án. 

Chương 2 

LẮNG NGHE LỜI CHÚA 

        Sau khi cử hành tình yêu đầy thương xót của Thiên Chúa, giờ đây chúng ta có thể lắng nghe Lời Chúa cách hiệu quả hơn. 

        * Trong Linh Đạo cũ, Lời Chúa thường được dùng làm nền tảng để khích lệ sự công chính luân lý, để cảnh cáo những người bướng bỉnh, cứng đầu và tội lỗi. Theo đường lối này, Thiên Chúa được quan niệm như người đốc công khắc nghiệt, hay vị thẩm phán chí công, Ngài sẽ giáng hình phạt xuống trên dân Ngài cách tàn nhẫn nếu họ bỏ đường ngay nẻo chính. Đường lối này tất nhiên sẽ hạn chế những đoạn Thánh Kinh được đọc trong phụng vụ, vì chỉ một số ít đoạn có tính cách khuyên bảo hoặc khuyến cáo nên mới được đưa vào phụng vụ mà thôi. Bài giảng tiếp theo cũng thường mang đặc điểm ngăm đe, nhằm mục đích kêu gọi người ta sửa lại đời sống luân lý, kèm theo những hăm dọa về hậu quả khủng khiếp của sự bất tuân: Lửa hỏa ngục! Đích điểm ở đây là hướng về con người. 

        * Linh Đạo Thánh Thể Canh Tân luôn trở về nguồn, Lời Chúa trước tiên được coi là lời sáng tạo (St.1-2). nhất là sáng tạo con người; Lời Chúa cũng có đặc điểm đào tạo, tức là đào tạo “Dân được tuyển chọn” (Xh.19 va 24). Mục đích của Lời Chúa là nhắc nhở dân về những công cuộc kỳ diệu mà Chúa đã và còn đang thực hiện trong lịch sử của dân Ngài. Vì thế, cuối mỗi bài đọc được công bố trong Thánh Lễ, sứ điệp của Lời Chúa được nhận biết rõ hay không là tùy thuộc vào câu trả lời cho vấn nạn của Chúa: “Các ngươi thấy Ta đã đối xử với Ai Cập thế nào và đã mang các ngươi như trên cánh chim bằng mà đem đến với Ta” (Xh.19:3-5). Như vậy, mục đích chính của các bài đọc là giúp ta sống cảm nghiệm hằng ngày về tình yêu Thiên Chúa. Vì thế, đích điểm của Lời Chúa ở đây là hướng về Thiên Chúa. 

        Mỗi người đều trải qua biết bao kinh nghiệm hằng ngày, nhưng ít khi chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa của chúng. Nhiệm vụ của vị ngôn sứ là giải thích những biến cố này và lưu ý ta về những gì Thiên Chúa muốn nói với ta qua các biến cố ấy. Một khi chúng ta học được từ nơi vị ngôn sứ nghệ thuật giải thích “dấu chỉ của thời gian”, chúng ta có thể lựa ra những sứ điệp nào dành cho mình… và có thể phát triển ý thức về tác nhân thần linh ở giữa chúng ta. Tuy nhiên, điều quan trọng cần phải nhớ là, vì Thiên Chúa là tình yêu, nên sứ điệp của Ngài luôn phải là lời của tình yêu. Ngay cả khi Ngài quở trách hay đánh phạt ta vì những hành vi sai quấy của ta, thì cũng chính tình yêu đã thúc đẩy Ngài nói và gọt dũa những lời của Ngài. Một khi hiểu rõ như vậy, chúng ta sẽ không còn sợ giải thích sai lạc Lời Chúa được công bố trong Thánh Lễ nữa. 

        Dựa vào căn bản này, bài giảng phải làm sáng tỏ sứ điệp của tình yêu Chúa, bài giảng phải là “cuộc bẻ ra” hay chia sẻ Lời Chúa, phải làm sao cho những người đơn sơ chất phác có thể đón nhận được Lời Chúa. Bài giảng phải nhằm giúp cho giáo dân “thấy” và thưởng thức được tình yêu Thiên Chúa. Một cách lý tưởng, phải dẫn người ta tới kinh nghiệm ngạc nhiên, tới nhận thức bất thần về thực tại vẫn luôn hiện hữu, nhưng đã không được người ta nhận thức vì bị ngăn cản cách nào đó hay vì định kiến.

BIỂU TƯỢNG

CHỨ KHÔNG PHẢI DỤ NGÔN 

        Hai từ Hi Lạp tóm lược những đường lối khác nhau về cách hiểu biết Lời Chúa của ta, đó là PARABOLE (Dụ Ngôn) và SYMBOLE (Biểu tượng). 

        * PARA là kề bên, BOLE là ném đi. PARABOLE cho biết phải hiểu Lời Chúa thế nào theo Linh Đạo Thánh Thể Cũ nghĩa là trình bày cho ta mẫu mực của cuộc sống, và cho ta biết cách cụ thể phải làm gì. “Những gì phải làm” ấy chỉ là sao lại mẫu mực có sẵn về những đặc tính được trình bày trong đoạn Thánh Kinh. Tuy nhiên, một cách tổng quát, đường lối ấy hủy hoại phẩm giá con người. Vì mỗi người đều là một nhân vị độc nhất không thể có người thứ hai hoàn toàn giống như vậy, vì thế người ta thường gớm ghét dòng dõi vô tính (Cloning). 

        Ngoài ra, hoàn cảnh của chúng ta ngày nay cũng hoàn toàn khác biệt với những gì thịnh hành ở thời Thánh Kinh. Chẳng cần thông minh lắm, người ta cũng có thể sao lại hoặc bắt chước sự đáp ứng của người khác đối với Thiên Chúa…. ngay cả xúc vật hay chim chóc cũng có thể nhái lại con khác. Sự đáp ứng như thế không phát xuất từ tâm hồn, nhưng chỉ hời hợt bề ngoài và do đó không có ý nghĩa và giá trị bao nhiêu. Hãy nhớ lại những phản ứng của ta khi nhận được tấm thiệp chào mừng với những lời in sẵn và tấm thiệp viết tay của người gởi. 

        * SYM là cùng với nhau, BOLE là ném đi, liệng đi. SYMBOLE ám chỉ hai mảnh của một chiếc đĩa sành bị bể (hay như ổ khóa và chìa khóa), khi được liệng đi cùng với nhau (không phải kề bên nhau), hai mảnh ấy tạo thành một bản thiết kế toàn bộ, trọn vẹn và có ý nghĩa. Mỗi phần đều không thể trọn vẹn nếu thiếu phần kia; phần nọ phải cần đến phần kia mới được trọn vẹn. Bởi thế, kinh nghiệm được thuật lại trong Thánh Kinh phải vươn tới và móc nối vào kinh nghiệm của chúng ta. Những kinh nghiệm của ta chưa được rõ rệt, nhưng khi được ráp lại với kinh nghiệm được diễn tả trong Thánh Kinh, bỗng nhiên ta nhận ra ý nghĩa thâm thúy của những kinh nghiệm trước kia, vì bây giờ chúng ta mới nhìn thấy toàn thể bức họa, khiến chúng ta phải kêu lên: “À ra thế, bây giờ tôi mới thấy…” (Coi: Cv.10:34-35). Nhận thức bất chợt này rất cá biệt và giúp ta khám phá được lời đáp ứng cá nhân và sâu xa đối với hành động của Thiên Chúa. 

ĐIỀU ĐÓ DIỄN TIẾN THẾ NÀO? 

        Điều đó diễn tiến thế nào? Thí dụ cụ thể sau đây có thể giúp ta trả lời câu hỏi trên. Đó là câu chuyện Đa-vít phạm tội với Bat-sê-ba (Bathsheba), rồi sau đó đã tìm mọi cách để giấu diếm tội lỗi mình, đến nỗi đã giết U-ri-a) Uria, chồng bà Bat-sê-ba (Bathsheba). (Coi: 2Sm.11:1-12:23). Câu chuyện đó nhắc nhở ta về những trường hợp chúng ta tìm cách giấu diếm lỗi lầm của mình bằng một chuỗi những lời gian dối và đôi khi bằng những thủ đoạn gian ác nữa. Suốt thời gian ấy, từ thâm tâm, chúng ta vẫn ý thức mình tội lỗi, nhưng vẫn tìm mọi cách để tránh né đối đầu với thực tại cho tới khi bị lộ ra và hết đường chối cãi. Tội lỗi ta bị bại lộ là do quá nhiều dối trá đến nỗi nhiều khi chúng mâu thuẫn nhau và giấu đầu hở đuôi. Một khi nhận thức được mưu cơ bị bại lộ thì phản ứng của ta sẽ phải như sau: Hoặc ăn năn sám hối như trường hợp Đa-vít, hoặc sẽ chai lỳ cố chấp hơn trong tội. Nhưng vấn đề muốn nói ở đây là, câu chuyện về những hành động của Đa-vít mới chỉ là phân nửa của vấn đề, phân nửa câu chuyện này soi sáng và nói lên ý nghĩa thầm kín về thái độ của ta mà giờ đây ta mới hiểu rõ. 

NHỮNG THỰC HÀNH 

1- Hãy lắng nghe Lời Chúa và chú tâm vào những đặc điểm của Thiên Chúa hơn là vào những gì ta phải làm hay không được làm. 

2- Trong thinh lặng sâu xa, hãy khảo sát xem câu chuyện được Lời Chúa công bố có tương ứng với một kinh nghiệm quá khứ nào của ta không? (tương tự như chìa khóa với ổ khóa). Nếu có, hãy tìm hiểu xem Thiên Chúa muốn nói gì với ta qua cảm nghiệm ấy. Ta đã có nhận thức ngạc nhiên nào? Giờ đây ta có thể đáp lại Lời Chúa cách tích cực và hiệu quả ra sao? 

3- Hãy suy tưởng Lời Chúa được công bố và hãy để Lời ấy kích thích tâm trí bạn để có thể nhận ra những nối kết khác và những áp dụng khác, ngay cả với những câu chuyện khác trong Thánh Kinh. 

4- Bạn đáp ứng lại Lời Chúa thế nào: Trong khi cử hành Thánh Thể cũng như sau đó? 

5- Bạn có chia sẻ sự hiểu biết của mình về đoạn văn hoặc câu chuyện Thánh Kinh với người khác không? Hãy thực hiện điều đó càng sớm càng tốt, vì nhờ vậy mà sứ điệp của Lời Chúa sẽ ghi đậm nét hơn vào ký ức bạn.

Chương 3 

BẺ RA VÀ CHIA SẺ LỜI CHÚA 

        Giờ đây chúng ta sẽ khảo sát một vài vấn đề liên quan đến bài giảng trong đó chúng ta “bẻ” Lời Chúa ra cho dân chúng. 

        * Trước Công Đồng Va-ti-ca-nô II, bài giảng là một thực thể biệt lập. Bài giảng thường được khởi đầu bằng cách trưng dẫn một câu Kinh Thánh để nhấn mạnh đến chủ đề của bài giảng. Tiếp đến là Dấu Thánh Giá. Một bài giảng cổ điển luôn có một cấu trúc rõ rệt: Mở đầu, thân bài gồm những luận chứng chính, và cuối cùng là kết luận hay kết thúc. Bài giảng được kết thúc bằng Dấu Thánh Giá, điều đó chứng tỏ, bài giảng không phải là một thành phần của cuộc cử hành Thánh Thể. 

        Hơn nữa, chủ đề của bài giảng thường cũng không liên quan đến những bản văn Thánh Kinh của Thánh Lễ trong ngày. Ngoài ra, chủ ý của bài gảng cũng không nhằm giúp dân hiểu và nhận biết giá trị của những đường lối của Thiên Chúa, đặc biệt là tình yêu của Ngài đối với chúng ta, nhưng là để động viện người ta sống theo một đường lối đặc biệt nào đó, đường lối đặc biệt ấy thường là tuân giữ cặn kẽ các Giới Răn và Lề Luật của Chúa. Nói cách tổng quát, những bài giảng trước Công Đồng Va-ti-ca-nô II thường có đặc tính một bài thuyết trình thuộc khoa hùng biện hơn là một bài chia sẻ niềm tin. 

        * Sau Công Đồng Va-ti-ca-nô II, bài giảng nhằm mục đích đưa Lời Chúa trở về hiện tại, nghĩa là giải thích Lời Chúa, đưa ra những áp dụng thực tế và làm cho Lời Chúa có ý nghĩa đối với thế giới cụ thể ngày nay. Sau Công Đồng Va ti-ca-nô II, Thánh Kinh được trình bày cho dân nhiều hơn. Vì dân chúng thường không biết nhiều về bối cảnh và cũng không hiểu lắm về ý nghĩa của những đoạn Thánh Kinh ấy, tính chất biểu tượng của Lời Chúa vẫn còn mới mẻ đối với hầu hết các ki-tô hữu. Vì thế Lời Chúa cần được giải thích để dân chúng có thể hiểu và đáp ứng lại. Vì Đức Tin phát sinh nhờ chăm chú lắng nghe Lời Chúa và đáp lại lời mời gọi của Chúa, nên Lời Chúa phải được nghe như một sự việc đang diễn tiến và sống động trong bối cảnh sống của ta. 

        Chủ đề của bài giảng có thể là: Những bài đọc trong ngày hay bất cứ phần nào của Thánh Lễ, hoặc những đề tài, như: Giao Ước, Mầu Nhiệm Phục Sinh,v.v.(Qui Chế Tổng Quát #4). Mục tiêu nhắm tới là giúp cộng đoàn cử hành Thánh Thể cách chân thực, nghĩa là tham dự cách tích cực, thông suốt và hiệu quả vào Mầu Nhiệm. 

        Có nhiều cách trình bày sứ điệp của Lời Chúa cách hữu hiệu: Đối thoại, diễn kịch, trình diễn con rối và những phương pháp thính thị khác. Đặc biệt đối với các trẻ nhỏ, diễn lại đoạn Tin Mừng là phương pháp rất đáng khuyến khích, nhưng phải diễn những gì có ý nghĩa và hợp với trình độ hiểu biết của trẻ nhỏ. Phương pháp này cũng rất thành công đối với người lớn, đặc biệt là những người có trình độ đức tin chưa được sâu sắc lắm. 

        Cũng có nhiều kỹ thuật chúng ta nên xử dụng để làm cho bài giảng thêm công hiệu: chẳng hạn có thể dùng một hoàn cảnh cụ thể của đời sống liên quan đến sứ điệp chính của bài giảng để dân chúng cảm nghiệm được mối tương quan giữa chủ đề và cuộc sống hằng ngày. Cũng nên dùng những biến cố thời sự như cuộc chiến ở I-rắc (Iraq) chẳng hạn. Những biến cố ấy phải có một tầm quan trọng đối với dân chúng, và nhiệm vụ của vị ngôn sứ là vạch cho họ thấy những điểm đặc biệt bao hàm sứ điệp Chúa muốn gởi đến cho họ. Tuy nhiên, cũng nên cẩn thận, đừng biến bài giảng thành điểm mục thông tin về các biến cố như vậy. 

 Bài giảng không thể thay thế cho các hình thức giáo huấn khác, như: giáo lý, các khóa học hay thuyết trình; các cuộc hội thảo, tĩnh tâm, những lớp giáo lý cho người lớn… Những giáo dân có khả năng là nguồn năng lực phong phú có thể hỗ trợ cho các lãnh vực này. 

SOẠN BÀI GIẢNG 

 Sau đây là một vài đề nghị liên quan đến việc soạn bài giảng cho ngày Chúa Nhật. Một cách lý tưởng, nên khởi sự soạn bài giảng ngay từ thứ hai, ít nhất là đọc và suy niệm các bản văn trước. Tham khảo các sách chú giải cũng như các tài liệu khác có thể tiến hành suốt cả tuần. Sau cùng, để soạn bài giảng đầy đủ thì lý tưởng nhất là nên đến và suy niệm trước sự hiện diện của Chúa trong Thánh Thể, vì dầu sao bài giảng cũng là sứ điệp của Chúa nói với dân của Ngài; còn vị giảng thuyết chỉ là phát ngôn viên của Chúa, là dụng cụ Chúa dùng để chuyển đạt sứ điệp của Ngài mà thôi. Tuy nhiên, như chúng ta từng kinh nghiệm, những gì phát xuất từ tâm hồn và từ mối tương quan thực sự giữa cá nhân với Chúa bao giờ cũng có sức lôi cuốn và tác động vào tâm hồn người nghe hơn là những gì được vay mượn của người khác cho dù người ấy có thể có một kiến thức sâu rộng, một đời sống thánh thiện hoặc giầu kinh nghiệm tới đâu chăng nữa. Một điều hết sức quan trọng khác là khi soạn bài giảng, cần phải chú ý đến cử tọa mà chúng ta sẽ giảng. 

        Về cách thuyết giảng, cung giọng và cách thức đàm thoại bao giờ cũng hấp dẫn hơn là cung cách hùng biện. Một cách tổng quát, dân chúng không ưa kiểu nói la hét, hay cung cách trịch thượng như kẻ cả coi cộng đoàn như đám con nít. Mời gọi giáo dân tự suy nghĩ về các chân lý hoặc nguyên tắc được trình bày, đó là đường lối tốt hơn là đưa ra những giải pháp sẵn có. Nêu lên một số câu hỏi bỏ 

ngỏ về đề tài, mời gọi cộng đoàn tiếp tục suy nghĩ, tìm tòi, đó cũng là một đường lối rất hữu ích. 

        Những kỹ thuật khác như: tiếp xúc bằng mắt, xử dụng hệ thống âm thanh v.v. không cần nói, chúng ta cũng biết, đó là những phương tiện góp phần quan trọng cho việc chuyển đạt sứ điệp sống động như Lời Chúa chẳng hạn. 

NỐI KẾT PHẦN CÒN LẠI CỦA PHỤNG VỤ THÁNH THỂ 

 Nhiều vị chủ tế thở phào khoan khoái sau khi chấm dứt bài giảng. Tuy nhiên, chúng ta không nên quên rằng, sứ điệp của bài giảng phải bao trùm toàn thể cuộc cử hành Thánh Thể. Sứ điệp then chốt của bài giảng phải được đề cập tới trong suốt phần còn lại của cuộc cử hành Thánh Thể. Sứ điệp ấy phải được đề cập tới khi đọc Kinh Tin Kính. Có thể dùng một vài điểm cốt yếu làm ý chỉ cho Lời Nguyện Giáo Dân. Ngay cả Kinh Nguyện Thánh Thể cũng có thể xen vào một vài lời tóm tắt cảm nghiệm đức tin, chẳng hạn nếu bài giảng nhấn mạnh đến tình yêu đầy thương xót của của Thiên Chúa khi đón nhận các tội nhân trở lại bàn tiệc, thì trong Kinh Nguyện Thánh Thể II, chúng ta có thể xen vào một vài lời tương tự như sau: “Chúng con cảm tạ Cha vì đã cho chúng con là những người tội lỗi được xứng đáng tham dự vào bàn tiệc của Cha và chia sẻ sự sống với Cha; xin cho chúng con được phụng sự Cha cách trung thành và tận tình hơn; chúng con cúi xin Cha cho Thánh Thần…”. 

 Ở một vài chỗ khác, chúng ta cũng có thể xen vào ít lời tương tự như vậy. Tuy nhiên, điều quan trọng là chủ tế phải chuẩn bị trước những gì ngài muốn thêm, vào lúc nào và ở chỗ nào. Những lời thêm vào ấy phải luôn ngắn gọn, được soạn kỹ và không làm xáo trộn dòng tư tưởng cũng như lời văn của Kinh Nguyện Thánh Thể được lựa chọn. Sứ điệp của bài giảng cũng có thể xen vào Kinh “Đây Chiên Thiên Chúa” và vào Lời Nguyện Hiệp Lễ. Như vậy, bài giảng sẽ làm cho sứ điệp chính yếu của Mầu Nhiệm cử hành được nổi bật lên và thấm nhập vào toàn thể cuộc cử hành Thánh Thể. Cũng chính vì lý do đó, ý tưởng chính của bài giảng có thể là những ý tưởng của Nghi Thức Thống Hối và của Lời Nguyện Mở Đầu.

Chương 4 

ĐÁP LẠI LỜI CHÚA TRONG NIỀM TIN 

         Giờ đây chúng ta sẽ khảo sát những khác biệt về đáp ứng Lời Chúa trong các cuộc cử hành Thánh Thể trước và sau Công Đồng Va-ti-ca-nô II. 

        * Trước Công Đồng Va-ti-ca-nô II, Lời Chúa trong cuộc cử hành Thánh Thể không được công bố cho dân, vì Lời Chúa được đọc thầm và bằng tiếng La-tinh. Do đó, đáp lại Lời Chúa thực sự không cần thiết. Sứ điệp của Lời Chúa sau đó (tức sau khi được đọc thầm bằng tiếng La-tinh) mới được lặp lại và giải thích bằng tiếng địa phương qua bài giảng. Và những bài giảng vào thời ấy cũng thường là những bài học về luân lý liên quan đến một nhân đức của ki-tô giáo. 

        * Sau Công Đồng Va-ti-ca-nô II, cử hành Thánh Thể luôn có phần đáp lại Lời Chúa. Trước hết, về Đáp Ca, thực ra đây không phải là đáp lại Lời Chúa, nhưng là một suy niệm về Bài Đọc thứ nhất: “Đáp Ca thường lấy ở Sách Bài Đọc, vì các bản văn ở đây liên quan mật thiết đến Bài Đọc trước đó. Vì thế việc lựa chọn Thánh Vịnh lệ thuộc vào Bài Đọc” (Qui Chế Tổng Quát, #36). Vì mối tương quan với Bài Đọc, nên đặc điểm của Đáp Ca không giống như các bài ca dành cho những cuộc rước. Đáp Ca nhằm mục đích khích lệ dân chúng suy niệm về những hành vi cứu độ của Thiên Chúa. 

        Đáp Ca không phải dành riêng cho ca đoàn, nhưng là cho cộng đoàn. Trong một vài trường hợp, có thể xử dụng nhạc êm dịu làm nền, trong khi cộng đoàn suy niệm trong thinh lặng về Lời Chúa vừa được công bố. Cũng vậy, thinh lặng có thể là một hình thức thay cho Đáp Ca. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm, dân chúng cần được huấn luyện chu đáo trước khi xử dụng thinh lặng cách hiệu quả như một hình thức cầu nguyện. 

        Trong khi Đáp Ca liên hệ với Bài Đọc trước đó, thì Aleluia hướng tới bài Tin Mừng sắp được công bố và nêu lên ý chính của Bài Tin Mừng này. Bài ca này chuẩn bị cho cộng đoàn chú tâm vào điểm chính của Bài Tin Mừng. 

        Như vậy, hai bài ca xen vào giữa các Bài Đọc không phải là đáp ứng Lời Chúa, nhưng có những công dụng và mục đích hoàn toàn khác nhau. 

ĐÁP ỨNG THỰC SỰ: NIỀM TIN 

        Đáp lại Lời Chúa là NIỀM TIN, đó là sự hiểu biết sâu xa về đường lối của Chúa; đường lối đó, theo I-sa-i-a, là một đường lối hoàn toàn khác với đường lối người phàm (Coi:Is.55:8-11). Sự đáp ứng ấy, trong các Chúa Nhật và Lễ Trọng (Solemnity), được biểu lộ qua việc Tuyên Xưng Đức Tin và Lời Nguyện Giáo Dân. Tuy nhiên, hầu như người ta chỉ đọc thuộc lòng Kinh Tin Kính theo thói quen, nên kinh này ít hoặc chẳng có ý nghĩa gì đối với cộng đoàn. Vì thế chủ tế nên nhấn mạnh một vài điểm về đức tin bằng cách nối kết Kinh Tin Kính với một trong những ý tưởng chính của bài giảng liên quan đến một đặc tính nào đó của Thiên Chúa, chẳng hạn bài giảng đề cập đến lòng khoan hồng và sự sẵn sàng tha thứ của Thiên Chúa, chủ tế có thể mở đầu Kinh Tin Kính bằng những lời tương tự như sau: “Khi cầu nguyện theo Kinh Tin Kính hôm nay, với niềm tin vững mạnh, chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa vẫn tiếp tục rộng lượng với chúng ta. Ngài là Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho ta. Vì thế chúng ta hãy cùng nhau tuyên xưng rằng…”. Lời giới thiệu ngắn gọn ấy có thể làm cho những lời chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính thêm ý nghĩa và có tính cách cá nhân. 

        Điều cần tránh là chủ tế không nên bắt đầu Kinh Tin Kính, chẳng hạn ngài đọc: “Tôi tin kính một Thiên Chúa”, rồi cộng đoàn tiếp vào: “là Cha toàn năng…”. Tốt hơn, chủ tế nên giới thiệu một vài lời vắn tắt, rồi tất cả cùng bắt đầu: “Tôi tin kính…”. 

        Việc tối quan trọng để đem lại hiệu quả cho phần hai của cuộc cử hành Thánh Thể, tức Phần Phụng Vụ Bánh Thánh, đó là giúp cộng đoàn đào sâu niềm tin qua việc công bố Lời Chúa. Nhờ Lời Ngài mà Thiên Chúa nhắc cho dân những gì Ngài đã thực hiện trong lịch sử. Rồi Ngài thêm: “Vậy giờ đây, nếu các ngươi thực sự nghe tiếng Ta và tuân giữ Lời Ta, các ngươi sẽ là sở hữu của riêng Ta” (Xh.19:3-5). 

        Xác tín về sự trung thành của Thiên Chúa đối với dân Ngài, điều đó có ảnh hưởng đến chiều sâu và đặc tính của tinh thần phó thác trong tay Chúa của dân. Vì thế, niềm tin của các tín hữu càng sâu xa bao nhiêu thì họ càng phó thác trọn vẹn hơn đời sống và những khó khăn của họ cho sự săn sóc của Thiên Chúa hơn bấy nhiêu. Như vậy bẻ bánh là cử chỉ biểu tượng cho sự tự nguyện bẻ nát cuộc đời mình ra trong nghi thức và trong chính cuộc sống, điều đó lệ thuộc vào niềm xác tín của họ đối với sự trung thành của Thiên Chúa, và sự đáng tin cậy của Ngài theo quan điểm của chúng ta. 

        Bởi thế, điều quan trọng là phải hết sức làm cho phần kết của Phụng Vụ Lời Chúa gây xúc động mãnh liệt và có tác động trên mỗi cá nhân. Sự xúc động ở đây không phải giống như chiếc bong bóng xì hơi, hay như sự xủi bọt của chai nước ngọt khi vừa mở ra. Sự xủi bọt ấy chỉ kéo dài giây lát rồi xẹp xuống và không còn chút năng lực nào nữa. Nhưng sự xúc động trước Lời Chúa phải là cảm nghiệm kinh ngạc mà người ta bỗng nhận ra những lời Chúa nói với họ quả thực không sai, khiến họ phải kêu lên: “Quả thực bây giờ tôi mới thấy!”. Và như Thánh Gio-an viết: “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm tới… Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho anh em” (1Ga.1:1-4). 

LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN 

        Đây là một trong những thành phần lâu đời nhất của Thánh Lễ. Thánh Gius ti-nô đã đề cập tới phần này ngay từ thế kỷ thứ 2. Đây là lời nguyện luôn được coi là quan trọng. Vì thế, chỉ những người đã được chịu Phép Rửa và các ki-tô hữu đang hiệp thông hoàn toàn với Giáo Hội mới được phép tham dự vào lời nguyện này của dân tư tế[1] (Chính vì thế lời nguyện này được gọi là Lời Nguyện Giáo Dân, nghĩa là lời nguyện dành riêng cho dân Thiên Chúa mà thôi, người ngoài không được tham dự). 

        Lời nguyện này cũng được gọi là “Lời Nguyện Phổ Quát” (Universal Prayers), nên lời nguyện này lưu ý ta về bề rộng và phạm vi phổ quát của các ý chỉ.Vì dân Thiên Chúa thi hành chức vụ tư tế của mình nhân danh toàn thể thế giới, nên lời nguyện này phải bao quát và trải rộng cho đến tận cùng bờ cõi trái đất. 

        Tuy nhiên, điều tối quan trọng là những ý chỉ phải phản ảnh đức tin thực sự của cộng đoàn. Vì thế cách tốt nhất để soạn những ý chỉ của lời nguyện này là phải đặt mối quan tâm đến cộng đoàn cụ thể, chứ không nên lấy những lời nguyện soạn sẵn trong các sách không liên hệ mấy với cộng đoàn đặc biệt. Những lời nguyện này cũng có thể do các phần tử trong cộng đoàn tự phát. Có như vậy, những lời nguyện ấy mới thực sự biểu lộ được những nhu cầu thực tế của những người qui tụ lại để tôn thờ. 

 Bản chất đặc biệt của những lời cầu xin này thuộc phần vụ của giáo dân. Đây không phải là lời nguyện của chủ tế, vì thế chủ tế không nên xướng những ý chỉ của lời nguyện này (Qui Chế Tổng Quát, #47). Hơn nữa, theo căn bản thần học, lời nguyện này phải là thành phần thường xuyên của mọi Thánh Lễ, chứ không chỉ dành riêng cho Chúa Nhật và các Lễ Trọng mà thôi (Qui Chế Tổng Quát, #45)[1]. 

        Về phương diện cơ cấu Phụng Vụ, Lời Nguyện Giáo Dân là kết thúc của Phụng Vụ Lời Chúa. Một cách lý tưởng, những ý chỉ của Lời Nguyện Giáo Dân phải gắn liền với những bài đọc trong ngày, gồm có: Trích dẫn từ bài đọc được nêu lên, rồi ý chỉ được lồng vào sứ điệp của trích dẫn. Như vậy sự duy nhất căn bản của Thánh Lễ luôn được bảo toàn. 

        Một khi giáo dân biết cách chăm chú vào Lời Chúa và rút ra những đặc điểm của Thiên Chúa được bao hàm trong Thánh Kinh rồi thì người ta sẽ dễ dàng bộc lộ ra qua những lời nguyện để cầu cho những nhu cầu của Giáo Hội và thế giới. Cũng nên nhắc cho giáo dân rằng, người ki-tô hữu chân chính khi cầu nguyện thì không quan tâm nhiều đến nhu cầu riêng của mình cho bằng những nhu cầu của người khác, vì cốt yếu của Thánh Lễ là “Bánh được bẻ ra cho người khác”. 

PHẦN IV 

THÁNH THỂ LÀ CỬ HÀNH CUỘC VƯỢT QUA CỦA

CHÚA KITÔ ĐỂ ĐI VÀO CUỘC SỐNG 

SUY NIỆM CÂU CHUYỆN E-MAU

(Lc.24) 

        Chúng ta đã kết thúc những suy niệm về một số khía cạnh của Linh Đạo Thánh Thể Canh Tân. Những suy niệm ấy nhằm mục đích đào sâu thêm tình yêu của ta đối với cuộc Tưởng Niệm Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Ki-tô và dẫn chúng ta tới gặp gỡ Người để nhờ đó chúng ta có thể và có đủ nghị lực khởi đầu cuộc sống mới. Giờ đây, chúng tôi muốn chia sẻ một vài suy niệm về những đường lối khác nhau để tìm gặp Chúa Phục Sinh trong đời sống của chúng ta hôm nay. Vấn đề được đặt ra là: Chúa Phục Sinh là con người thực và sống động đối với ta ra sao? Chúng ta làm quen với sự hiện diện sống động của Người thế nào? Những cuộc cử hành Thánh Thể của ta sẽ biến đổi ra khác tùy theo những vấn đề này… Ngoài ra, chúng ta có thực sự cử hành “Cuộc Phục Sinh” của Chúa Kitô được thể hiện ở nơi chúng ta không? 

        Cử hành cuộc Phục Sinh của Chúa Giê-su có nhiều ý nghĩa, một trong những ý nghĩa ấy là, mặc dù cuộc đời chúng ta chất chứa biết bao thất bại, hủy hoại, ảm đạm và những thực tại tiêu cực khác, nhưng chúng ta vẫn tin rằng, hiện giờ hạt giống sự sống mới đã được gieo vào giữa chúng ta. Khi tin tưởng như thế, thái độ của ta sẽ phải hết sức tích cực, nghĩa là do chính niềm tin này mà chúng ta phải hành động dường như những điều chúng ta hi vọng sẽ được thực hiện trong một tương lai rất gần. Đó là những lời tiên tri sẽ được ứng nghiệm mà người ta phải cảm nhận để biết rằng chúng thực sự sẽ xẩy ra như vậy. Chúng ta phải nhận thức rằng những nỗ lực yếu ớt của ta hoàn toàn vô ích trong công cuộc tìm gặp Chúa Phục Sinh bằng cách tìm kiếm Người nơi nấm mộ: “Sao lại tìm Người sống ở giữa kẻ chết?” (Lc.24:5). 

        Vậy đâu là “nơi” hay “hang động” mà chúng ta đã cố công tìm kiếm Người nhưng chẳng gặp? Phải chăng “nơi đó” là những chuyện phiếm phàm tục? những câu chuyện nhảm nhí tầm phào, những thú tiêu khiển? những hoạt động triền miên nhưng vô ích và chán nản? Phải chăng đó là những hành vi tự cao tự đại, những hành vi xây lâu đài trên không?

       Chương 24 của Thánh Lu-ca nhắc nhở chúng ta nhiều lãnh vực chắc chắn nhất nơi mà chúng ta có thể tìm gặp được Chúa Kitô Phục Sinh trong cuộc sống hằng ngày. 

         Chúng ta có thể tìm được Đấng Phục Sinh đang hiện diện giữa những con người đang sống động – qua việc phục vụ lẫn nhau trong tình yêu. Như hai môn đệ trên đường đi E-mau, chúng ta cũng đang trên đường hành trình qua cuộc sống với một số những giả định và định kiến “chúng tôi hi vọng” (Lc.24:21). Khi không tìm được Sự Sống ở những nơi chúng ta tưởng tượng, chúng ta đã tỏ ra thất vọng. Nhưng Người hiện diện ở Cuộc Bẻ Bánh nghịch lý để chúng ta nhận ra rằng: chính trong khi hiến thân là chúng ta nhận lãnh, trong khi tha thứ là chúng ta được tha thứ, trong khi chết đi là chúng ta được sinh ra trong sự sống muôn đời. Chúng ta có thể khám phá được điều ấy, đặc biệt là lúc chia sẻ Lời Chúa trong Thánh Lễ. Khi cuộc Chia Sẻ Lời Chúa này chỉ cống hiến ta chút hi vọng mơ hồ: “Lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên đó sao?” (c.32) thì Cuộc Bẻ Bánh (c.31) sẽ thúc đẩy ta hiến thân hơn nữa để noi gương Đấng mà tình yêu lớn lao đối với chúng ta đã dẫn Người đến cái chết cho các bạn hữu mình. 

          Một khi khám phá ra sự hiện diện phục sinh của Người, chúng ta có khuynh hướng trở về với cộng đoàn (c.33) và chia sẻ cảm nghiệm của ta với những người khác là những người cũng đã khám phá được sự hiện diện của Người trong cuộc sống của họ. Và chính trong cuộc chia sẻ niềm tin này (c.36), chúng ta gặp được Người hiện diện dưới một hình thức mới mẻ hoàn toàn. Những người chung quanh ta lúc ấy cũng sẽ có những vai trò đặc biệt đối với cuộc sống của ta, lúc ấy chúng ta sẽ coi họ (coi chân tay của họ) như những người anh chị em và như những cộng sự viên của ta chứ không như những đối thủ hay những kẻ xa lạ. Chúng ta lắng nghe mọi người với sự tôn trọng đặc biệt, ngay cả những anh chị em nhỏ bé nhất của Người, vì Người lại không hiện diện ở trong họ sao? Chúng ta sẵn sàng bẻ bánh với người xa lạ và chia sẻ nguồn tài nguyên nghèo nàn của ta với những người túng thiếu. Và trong cuộc Bẻ (Bánh và) Cá này (c.43), Chúa bảo đảm với mọi người rằng tất cả sẽ được no đủ và thỏa thuê. 

          Nghịch lý của sự hiến thân và chết đi là đây là con đường duy nhất dẫn tới cuộc sống ki-tô hữu thực, nghịch lý ấy được củng cố nhờ chia sẻ Lời Chúa và hát Thánh Vịnh. Sự hiện diện của Người được Thánh Kinh trình bày chi tiết (c.46-47) làm cho những cảnh sống của ta có một ý nghĩa mới và một mục đích mới: “Nào chẳng phải cần thiết trải qua đau khổ… mới được vão vinh quang sao?” Khi chúng ta bước theo con đường ấy và làm chứng cho những người khác, Chúa càng trở nên sống động đối với ta hơn khi chúng ta nhận thấy những lời yếu ớt và những hành vi do dự của ta có một sức mạnh phi thường để đánh động và chữa lành những người khác (c.49). Với niềm tin sâu xa ấy, giờ đây chúng ta mạnh dạn tiến bước từ Bê-ta-ni-a đi tới Can-va-ri-ô (c.50-51) để Máu các vị tử đạo trở thành hạt giống cho các tín hữu tương lai. Mầu Nhiệm Thập Giá chính là nguồn sống và hạnh phúc thật. 

           Mầu Nhiệm Vượt Qua đã làm cho cuộc sống xoay hẳn một vòng: Chết đã trổ hoa thành sự sống sung mãn và như vậy chúng ta có thể trở lại cuộc sống bình thường, nhưng bây giờ chúng ta sống sự sống ấy với một ý nghĩa mới và với niềm xác tín rằng, chúng ta không đơn độc. Chúng ta biết rằng Người luôn ở với ta, Người có thực chứ không phải là ảo ảnh, mặc dù chúng ta không thấy và không đụng chạm được tới Người như Tôma đòi hỏi. 

        Như vậy, chúng ta được mời gọi và được thách đố để khám phá lại sự hiện của Chúa Phục Sinh qua thực chất của cuộc sống ki-tô hữu hằng ngày, và để sống trọn Mầu Nhiệm Vượt Qua: Chết và Sống Lại, Sống Lại và Chết. Thông thường, chúng ta không cố gắng lắm để biến sự phục sinh thành yếu tố cốt lõi cho Linh Đạo riêng của ta. Ta vẫn thích chú tâm đến sự chết hơn trong những thực hành thiêng liêng. Lý do có lẽ vì sự chết gần gũi với những cảm nghiệm của con người hơn và dễ tưởng tượng hơn, nhưng chắc chắn điều đó chẳng phải là dễ dàng hơn để sống. Linh Đạo Thánh Thể Canh Tân mời gọi ta tái lập sự quân bình trong cuộc sống Mầu Nhiệm Vượt Qua. 

       Chúng ta lại chẳng nỗ lực theo Chúa Ki-tô, Đấng đã chết và sống lại vì phần rỗi chúng ta, Người đưa chúng ta lên một trình độ cao, nơi mà chúng ta tuy phải bẻ nát mình ra, nhưng vẫn vui tươi và khi làm như vậy, chúng ta đã không để tay trái biết việc tay phải làm đó sao?… Chúng ta lại không nỗ lực theo Chúa Ki-tô khi biểu lộ tình yêu đối với kẻ thù mà chúng ta vừa khám phá được, và mời gọi họ đến chia sẻ bữa ăn với Chúa đang hiện diện ở giữa chúng ta đó sao? Chúng ta lại chẳng nỗ lực theo Chúa Ki-tô khi tự nguyện giơ má kia cho những người cứ tiếp tục đối xử tàn tệ và nói xấu ta sao? Chúng ta lại chẳng nỗ lực theo Chúa Ki-tô khi cầu nguyện mà không chỉ cốt đọc cho xong kinh những kinh chẳng hạn những kinh của Tuần chín Ngày hay những Kinh của lòng sùng mộ, nhưng trong tinh thần và chân lý, với những lời thở than sâu xa thay vì những lời nói xuông đó sao? 

        Phải chăng sự hiệp thông của ta với Chúa và với nhau sẽ thành thực hơn và thân thiết hơn? Người không có ở đây theo những hình thức bề ngoài trước Công Đồng Va-ti-ca-nô II. Nhưng giờ đây Người quả thực đã sống lại và đang sống trong mỗi con người! 

 Lạy Đức Mẹ Thánh Thể, xin cầu cho chúng con.

 Khiết Tâm ngày 16 tháng 2, 2004 

Lm. Erasto Fernandez, SSS 

Chuyển ngữ: Lm. Domic Thuần, SSS